Bước tới nội dung

Maeda Atsuko

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Maeda Atsuko
Maeda tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo lần thứ 36 vào tháng 10 năm 2023
Sinh10 tháng 7, 1991 (33 tuổi)
Ichikawa, Chiba,  Nhật Bản
Nghề nghiệp
Phối ngẫu
Katsuji Ryo
(cưới 2018⁠–⁠ld.2021)
Con cái1
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loạiJ-pop
Nhạc cụGiọng hát
Năm hoạt động2005–nay
Hãng đĩaKing
Hợp tác vớiAKB48
Websitewww.atsuko-maeda.com

Maeda Atsuko (前田敦子 (Tiền Điền Đôn Tử)?), sinh ngày 10 tháng 7 năm 1991, hay còn gọi là Acchan (あっちゃん), là một nữ ca sĩ, diễn viên Nhật Bản. Cô là cựu thành viên của nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản AKB48 và một trong những thành viên nổi bật nhất trong nhóm vào thời điểm đó, được coi là "át chủ bài" và "Gương mặt đại diện" của nhóm. Sau khi tốt nghiệp AKB48 vào ngày 27 tháng 8 năm 2012. Maeda kể từ đó tiếp tục với sự nghiệp ca hát và diễn xuất[1][2][3]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Maeda sinh ra ở Ichikawa, Chiba. Ở tuổi 14, Maeda trở thành thành viên Team A - đội đầu tiên của AKB48, bao gồm 24 cô gái ra mắt vào ngày 8 tháng 12 năm 2005.

Maeda biểu diễn cùng AKB48 năm 2011

Trong năm 2009, Maeda đạt hạng 1 cho cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nhóm, cô trở thành Center cho single thứ 13 "Iiwake Maybe".[4] Tại tổng tuyển cử thứ 2, cô đạt hạng 2, nhưng vẫn giữ vị trí quan trọng trong đội hình cho single thứ 17 "Heavy Rotation"[5]. Cuối năm đó, AKB48 tổ chức Janken Taikai (Đại hội Oẳn tù tì) để tìm ra vị trí Senbatsu của single thứ 19 "Chance no Junban", Maeda đạt hạng 15 chung cuộc[6], cô cũng giành chiến thắng cuộc tổng tuyển cử thứ 3 vào năm 2011[7]

Maeda cũng là một trong những thành viên xuất hiện trong hầu hết các single của nhóm từ khi AKB48 được thành lập. Nhưng sự xuất hiện này đã bị cắt đứt khi cô thua đội trưởng Team K Akimoto Sayaka tại Đại hội Oẳn tù tì cho Single thứ 24 "Ue Kara Mariko"[8]

Vào ngày 25 tháng 3 năm 2012, trong buổi concert của AKB48 tại Saitama Super Arena, cô thông báo sẽ tốt nghiệp[9][10]. Điều này đã gây xôn xao dư luận dẫn đến tin đồn (sau này được xác nhận là sai) một sinh viên trường Đại học Tokyo đã tự tử khi nghe tin cô sẽ tốt nghiệp[11]. AKB48 thông báo lễ tốt nghiệp của cô sẽ diễn ra ở Tokyo Dome, vốn là nơi AKB48 mơ ước hướng tới[12]. Album "1830m" cũng được ra mắt, con số "1830m" dùng để diễn tả độ dài của người hâm mộ đến bắt tay cô trong cuộc bắt tay cuối cùng của cô[3]. Trong buổi diễn cuối cùng, đã có 229.096 người đặt vé vào buổi lễ tốt nghiệp AKB48 của cô diễn ra tại nhà hát AKB48 được truyền hình trực tiếp trên Youtube.[3][13]

Sự nghiệp Solo

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 23 tháng 4 năm 2011, Maeda thông báo cô sẽ ra mắt solo với single đầu tay "Flower ", phát hành vào ngày 22 tháng 6, single ra mắt tại số 1 trên bảng xếp hạng Oricon với 176.967 bản tuần đầu tiên. Tiếp đó là single thứ 2 " Kimi wa Boku da ", phát hành vào tháng 6 năm 2012, là đĩa đơn solo cuối cùng của Maeda khi còn là thành viên của AKB48, single ra mắt ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Oricon và đạt vị trí số 1 trên Billboard Japan Hot 100.

Vào ngày 15 tháng 6 năm 2013, tại sự kiện bắt tay của AKB48 được tổ chức tại Makuhari Messe, AKB48 thông báo Maeda sẽ xuất hiện với tư cách khách mời đặc biệt trong chuỗi concert mùa hè của nhóm tại Sapporo Dome vào ngày 31 tháng 7. Ở đó, cô ra mắt single thứ 3, " Time Machine Nante Iranai "(タイムマシンなんていら Taimu Mashin Nante Iranai ?), mà sau này được phát hành vào ngày 18/9[14], sau đó được chọn làm bài hát chủ đề cho live-action chuyển thể từ Yamada-kun to 7-nin no Majo (Yamada và bảy phù thủy). "Time Machine Nante Iranai" đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon hàng ngày, và số 2 trên bảng xếp hạng Oricon Weekly. Trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100, single đứng vị trí số 1

Đĩa đơn thứ 4 "Seventh Code" được phát hành vào ngày 5 tháng 3 năm 2014, được sử dụng làm bài hát chủ đề của bộ phim "Seventh Code" mà Maeda đóng vai chính. Nó ra mắt ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Oricon và đạt vị trí thứ ba trên Billboard Japan Hot 100.

Vào ngày 12 tháng 12 năm 2015, có thông báo album đầu tiên của cô sẽ được phát hành vào cuối năm sau. Cuối cùng, album được ấn định phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 2016.

Sự nghiệp diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
Maeda năm 2013

Năm 2007, Maeda đóng vai phụ trong bộ phim Ashita no Watashi no Tsukurikata, đây là phim đầu tay của cô với tư cách là một diễn viên. Cô đóng vai chính trong bộ phim Moshidora năm 2011 và xuất hiện trong bộ phim Kueki Ressha của Yamashita Nobuhiro năm 2012. Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim kinh dị The Complex của Nakata Hideo năm 2013. Có thông tin cô đóng chung với Lương Triều Vỹ trong bộ phim 1905 của Kurosawa Kiyoshi.[15]

Năm 2013, Maeda đóng vai chính trong một loạt video ID 30 giây cho Music On! TV nơi cô đóng vai Tamako, một sinh viên tốt nghiệp Đại học Tokyo, người không tìm được việc làm và sống ở nhà, nơi cô chỉ ăn và ngủ, trong suốt bốn mùa. Đây trở thành một bộ phim truyền hình đặc biệt, và được phát triển thành một bộ phim chính thức, Tamako in Moratorium, bộ phim cuối cùng được lên kế hoạch ra rạp vào tháng 11

Maeda đóng vai chính trong bộ phim Seventh Code, nơi cô đóng vai một phụ nữ Nhật Bản tại Nga đang cố gắng để theo dõi một người đàn ông cô gặp trước đó. Bộ phim được trình chiếu tại Liên hoan phim Rome vào tháng 11 năm 2013, và được phát hành trong một buổi chiếu ngắn vào tháng 1 năm 2014. Cô phát hành một đĩa đơn cùng tên vào ngày 5 tháng 3.

Vào tháng 5 năm 2015, Maeda được chọn vào vai nữ chính Yoshizawa Kyoko của bộ anime và manga Dokonjō Gaeru, chuyển thể từ bộ manga nổi tiếng cùng tên của tác giả Yoshizawa Yasumi do đài NTV sản xuất.

Năm 2016, cô đảm nhận vai chính bộ phim truyền hình "Busujima Yuriko no Sekirara Nikki" trên đài TBS. Tập đầu tiên được phát sóng vào ngày 20 tháng 4 năm 2016.

Năm 2019, cô tham gia phim To the Ends of the Earth (旅 の お わ り 世界 の は じ ま り), đóng vai Yoko -một người dẫn chương trình truyền hình và sẽ là ca sĩ đến Uzbekistan cùng một nhóm nhỏ để quay một bộ phim tài liệu du lịch. Trong phim, cô hai lần hát bài Hymne à l'amour (với lời bài hát tiếng Nhật) của Édith Piaf, kể cả trong đêm chung kết.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Maeda Atsuko kêt hôn với diễn viên Katsuji Ryo vào tháng 7/2018, Cô sinh con trai đầu lòng vào ngày 4 tháng 3 năm 2019, trùng với kỷ niệm 10 năm phát hành bài hát AKB48 mà cô làm center, 10nen Sakura[16].Ngày 23/4/2021, Maeda Atsuko ly hôn chồng sau 3 năm gắn bó.[17]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn solo

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày phát hành Tên Vị trí xếp hạng Oricon sales
OriconWeekly

Singles Chart

Billboard Japan Hot 100

[18]

RIAJ Digital Track Chart[19] TWNCombo Tuần đầu tiên Tổng
22 tháng 6 năm 2011 "Flower"[20] 1 1 5 176,967 213,787
20 tháng 6 năm 2012 "Kimi wa Boku Da"[21] 2 1 4 136,212 170,944
18 tháng 9 năm 2013 "Time Machine Nante Iranai"[22][23] 2 1 15 60,687 79,081
5 tháng 3 năm 2014 "Seventh Chord"[24][25][26] 4 3 42,784 53,286
Year # Tên Vai trò[27] Chú thích
2006 Ind-1 "Sakura no Hanabiratachi" A-side
Ind-2 "Skirt, Hirari" A-side, Center Một trong 7 thành viên hát ca khúc chủ đề.[28]
1 "Aitakatta"
2007 2 "Seifuku ga Jama o Suru"
3 "Keibetsu Shiteita Aijō"
4 "Bingo!"
5 "Boku no Taiyō"
6 "Yūhi o Miteiru ka?"
2008 7 "Romance, Irane"
8 "Sakura no Hanabiratachi 2008"
9 "Baby! Baby! Baby!"
10 "Ōgoe Diamond" A-side.
2009 11 "10nen Sakura" A-side, Center Đồng thời hát "Sakurairo no Sora no Shita de", Shared center with Matsui Jurina of SKE48
12 "Namida Surprise!"
13 "Iiwake Maybe" Xếp hạng 1 cuộc tổng tuyển cử 2009
14 "River"
2010 15 "Sakura no Shiori" Đồng thời hát "Majisuka Rock 'n' Roll"
16 "Ponytail to Shushu" Đồng thời hát "Majijo Teppen Blues"
17 "Heavy Rotation" A-side Xếp hạng 2 cuộc tổng tuyển cử 2010, Đồng thời hát "Yasai Sisters" and "Lucky Seven"
18 "Beginner" A-side, Center, Mint Đồng thời hát "Kimi ni Tsuite" as subgroup Mint.
19 "Chance no Junban" A-side Đứng thứ 15 trong giải đấu oẳn tù tì,[29] Đồng thời hát "Yoyakushita Christmas" and "Kurumi to Dialougue"
2011 20 "Sakura no Ki ni Narō" A-side, Center, Mint Đồng thời hát "Kiss Made 100 Mile" as Mint.
"Dareka no Tame ni – What can I do for someone?" Single từ thiện
21 "Everyday, Katyusha" A-side, Center Đồng thời hát "Korekara Wonderland" and "Yankee Soul"
22 "Flying Get" Xếp hạng 1 cuộc tổng tuyển cử 2011, Đồng thời hát "Seishun to Kizukanai Mama", "Ice no Kuchizuke", "Yasai Uranai"
23 "Kaze wa Fuiteiru"
24 "Ue kara Mariko" B-side Did not participate in title song; lineup was determined by rock-paper-scissors tournament;[30][31] hát "Noël no Yoru" và "Rinjin wa Kizutsukanai" cùng Team A [cần dẫn nguồn]
2012 25 "Give Me Five!" A-side (Baby Blossom), Center, Selection 6 Played rhythm guitar in Baby Blossom; Đồng thời hát "Sweet & Bitter" as Selection 6
26 "Manatsu no Sounds Good!" A-side, Center Không tham gia cuộc Tổng tuyển cử năm 2012.
27 "Gingham Check" B-side Không tham gia vào bài hát chủ đề, bài hát "Yume no Kawa" là bài hát tốt nghiệp của cô
2016 43 "Kimi wa Melody" A-side Là đĩa đơn kỷ niệm 10 năm, tham gia với tư cách thành viên tốt nghiệp.
  • Mubōbi (2011)

Danh sách các chương trình truyền hình tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn
2008 Nasu Shōnenki Megumi Sasahara
2011 Drucker in the Dug-Out Minami Kawashima
2012 The Drudgery Train Yasuko Sakurai
2013 1905
The Complex Asuka Ninomiya
Tamako in Moratorium Tamako Sakai
Pokémon: Eevee and Friends Narrator
Seventh Code Akiko
2014 Eight Ranger 2 Saigo Jun
As the Gods Will Maneki-neko (voice)
2015 Kabukicho Love Hotel Saya Iijima
Initiation Love Mayuko "Mayu" Naruoka
2016 The Mohican Comes Home Yuka
Shin Godzilla Refugee
2017 Mukoku Kazuno
Before We Vanish Asumi Kase
The Last Shot in the Bar Reiko Suwa
2018 Dynamite Graffiti Makiko
Flea-picking Samurai Ochie
Eating Women Tamiko Shirako
2019 To the Ends of the Earth Yōko
Masquerade Hotel
The Master of Funerals Yukiko Watanabe
Almost a Miracle
The Confidence Man JP: The Movie Suzuki-san
2020 The Confidence Man JP: Episode of the Princess
2021 Caution, Hazardous Wife: The Movie
Remain in Twilight Mikie
DIVOC-12

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
  • AKBingo! (2008–2012)
  • Shukan AKB (2009–2012)
  • AKB48 Nemōsu TV (2008–2012)
  • Gachi Gase (2012)

Phim tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Documentary of AKB48: The Future 1 mm Ahead (2011)
  • Documentary of AKB48: To Be Continued (2011)
  • Documentary of AKB48: Show Must Go On (2012)
  • Documentary of AKB48: No Flower Without Rain (2013)

Chương trình radio

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Atsuko Maeda's Heart Songs (2010–2013)

Sách ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Hai. (はいっ。)
  • Acchan (あっちゃん)
  • Maeda Atsuko (前田敦子)
  • ATSUKO
  • Bukiyou (不器用)
  • Acchan (Memorial Photobook) (あっちゃん)

Giải thưởng và thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả
2010 BLOG of the year[33] Female section Bản thân Đoạt giải
2011 35th Japan Academy Prize Popularity Award (Actor Category) Moshidora Đoạt giải
Japanese Movie Critics Awards[34] New artist award Bản thân Đoạt giải
International Jewellery Tokyo[35] teenage department Đoạt giải
VOCE BEAUTY AWARDS[36] THE BEST BEAUTY OF THE YEAR (special award) Đoạt giải
2012 4th TAMA Film Award[37] Best Emerging Actress Award Bản thân (vai Kueki Ressha) Đoạt giải
22nd Japan Film Professional Awards[38] Best Actress Đoạt giải
Foreign Movie Import and Distribution Association[39] Foreign Movie Best Supporter Award Bản thân Đoạt giải
2013 23rd Japan Film Professional Awards Best Actress Tamako in Moratorium Đoạt giải
2014 Selfish theater award[40] Actress award Sun 2068 Đoạt giải
2016 11th Asian Film Awards[41] Best Supporting Actress The Mohican Comes Home Japan Đề cử
3rd Inter Pet Best Pet Smile Award[42] Best Pet Smile Award Bản thân Đoạt giải
2017 Best Formerist Award[43] female section Đoạt giải
2019 TAMA Film Awards[44][45] Best Actress Đoạt giải
Fumiko Yamaji Film Award[46] To the Ends of the Earth
Almost a Miracle
Đoạt giải

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Atsuko Maeda says she will leave AKB48”. Asia and Japan Watch. Asahi Shimbun. ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
  2. ^ 板野友美、敦子との"再会"「うれしい」 (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2013.
  3. ^ a b c “AKB前田卒業公演をGoogle+&YouTubeで完全生配信 ファンの投稿が公演の演出に!” (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. ngày 21 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2013.
  4. ^ “AKB48、13thシングル選抜総選挙「神様に誓ってガチです」” (bằng tiếng Nhật). livedoor Co.,Ltd. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2011.
  5. ^ “AKB48 17thシングル選抜総選挙『母さんに誓って、ガチです』レポート(4)” (bằng tiếng Nhật). Scramble-Egg Inc. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2011.
  6. ^ “AKB48『選抜じゃんけん大会』 "圏外"内田眞由美が19thセンターを奪取!” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2011.
  7. ^ 110人分足してもかなわない 最強すぎるAKB2トップ (bằng tiếng Nhật). Sponichi. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2011.
  8. ^ “AKB48 Janken Tournament results for 24th single Senbatsu members!”. ngày 20 tháng 9 năm 2011.
  9. ^ “あっちゃん、AKB卒業へ...「私なりに頑張った6年半でした」”. Oricon.
  10. ^ “AKB48前田敦子 :不動のセンターが卒業を発表 6年半の活動に幕” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co.Ltd. ngày 25 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2012.
  11. ^ “An idol 'graduating' should not be front-page news”. The Japan Times. ngày 15 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2012.
  12. ^ “前田敦子、AKB卒業後初のソロ公演決定 9月に東京&神戸で” (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  13. ^ “Maeda Atsuko makes a surprise appearance on the balcony”. Tokyohive. ngày 27 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2013.
  14. ^ “Atsuko Maeda makes guest appearance at AKB48 concert”. Japan Today. ngày 31 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2013.
  15. ^ Jason Gray (ngày 11 tháng 9 năm 2012). “Kurosawa to direct Japan-China co-production starring Leung”. Screen International.
  16. ^ “Former AKB48 star Atsuko Maeda gives birth to baby boy”. The Japan Times. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2019.
  17. ^ Nguyễn Hương. “Mỹ nhân Nhật Maeda Atsuko ly hôn”. Ngoisao. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.
  18. ^ “Billboard Japan Hot 100 Charts” (bằng tiếng Nhật). Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011.
  19. ^ 有料音楽配信チャート (bằng tiếng Nhật). RIAJ.
  20. ^ “AKB48前田敦子「もしドラ」挿入歌でソロデビュー決定” (bằng tiếng Nhật). Natalie. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2012.
  21. ^ “前田敦子、新曲が映画「LOVE まさお君が行く!」” (bằng tiếng Nhật). Natalie. ngày 25 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2012.
  22. ^ “CDシングル 週間ランキング-ORICON STYLE ランキング”. Oricon.co.jp. ngày 24 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  23. ^ “Billboard Japan Hot 100” (bằng tiếng Nhật). Japan: Billboard. ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  24. ^ Schilling, Mark (ngày 2 tháng 1 năm 2014). “Seventh Code”. The Japan Times. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2014.
  25. ^ “CDシングル 週間ランキング-音楽ランキング - 2014年03月03日~2014年03月09日のCDシングル週間ランキング”. Oricon. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2014.
  26. ^ “Billboard Japan Hot 100│Charts│Billboard JAPAN”. Billboard-japan.com. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2014.
  27. ^ Center and A-side lineup information provided by “AKB48 歴代シングル選抜メンバー(2006年~2013年)” [(2006-2013) AKB48 successive single member selection]. entamedata.web.fc2.com. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2013.
  28. ^ “SKIRT, HIRARI AKB48's second indies release|”. supermerlion. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  29. ^ “AKB48、じゃんけん選抜シングルは「チャンスの順番」”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 4 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  30. ^ “AKB48 :AKB48 :じゃんけん大会��再び開催 9月に武道館で SKE48、NMB48ら総勢71人参加”. Mainichi Shimbun Digital Co., Ltd. (bằng tiếng Nhật). MANTANWEB. ngày 3 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2011.
  31. ^ “AKB48's second "Rock, Paper, Scissors" Tournament confirmed”. Tokyohive.com. ngày 3 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
  32. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
  33. ^ “bog of the year 2010”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2011.
  34. ^ {{chú thích web|url=https://chofu.keizai.biz/headline/930/%7Ctitle=大竹しのぶさん、AKB前田敦子さん受賞へ-調布で来月開催の「日本映画批評家大賞」で}[liên kết hỏng]
  35. ^ “AKB48前田敦子に黒木メイサ、ウォンビンら一堂に ジュエリー賞”.
  36. ^ “前田敦子 : 今年の"ベストビューティー"を受賞 「VOCE」が選出”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2011.
  37. ^ “TAMA Film Award”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021.
  38. ^ 第22回日本映画プロフェッショナル大賞. nichi-pro.filmcity.jp (bằng tiếng Japanese). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  39. ^ “AKB前田敦子、超多忙でも「週5本」 外国映画の魅力を力説”.
  40. ^ “WOWOW「勝手に演劇大賞」結果発表”.
  41. ^ Liu, Marian (22 tháng 3 năm 2017). “Iranian movie "The Salesman" among big winners at Asian Film Awards”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2023.
  42. ^ “あっちゃんデレデレ、愛猫ポッツお披露目「友達に顔が似ているって言われます」”.
  43. ^ “前田敦子、美脚輝くスリットドレスで大人の色気 クリスマスの予定明かす”.
  44. ^ “Maeda Atsuko & Aoi Yu won Best Actress at TAMA Film Awards”.
  45. ^ “最優秀女優賞に蒼井優、前田敦子 第11回TAMA映画賞”.
  46. ^ “第43回山路ふみ子映画賞は石川慶監督「蜜蜂と遠雷」、女優賞は前田敦子”.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]