Bước tới nội dung

AKB48

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
AKB48
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánAkihabara, Tokyo,  Nhật Bản
Thể loạiJ-pop
Năm hoạt động2005 (2005)–nay
Công ty quản lýNhật Bản DH Co., Ltd. (2020-nay)
Vernalossom (2006-2020)
Defstar Records (10/2006-8/2008)
You, Be Cool!/KING RECORDS (23/8/2008-nay)
Đài Loan Gold Typhoon Music/Warner Music Taiwan
Hãng đĩa
Hợp tác với
Thành viênDanh sách thành viên
Cựu thành viênDanh sách cựu thành viên
Websiteakb48.co.jp
Thông tin YouTube
Kênh
Năm hoạt động2006–nay
Thể loạiÂm nhạc
Lượt đăng ký2,65 triệu (tính đến 6/9/2024)
100.000 lượt đăng ký 2011
1.000.000 lượt đăng ký 2015

AKB48 (tiếng Nhật: エーケービー フォーティーエイト, chuyển tự Ēkēbī Fōtīeito, tiếng Anh: A.K.B. Forty-Eight) là một nhóm nhạc thần tượng nữ Nhật Bản do Akimoto Yasushi sáng lập năm 2005[2], được mô tả như là một hiện tượng xã hội[3]. AKB48 hiện đang nắm giữ kỷ lục Guinness về "Nhóm nhạc pop có số lượng thành viên đông nhất".[4] Họ cũng là một trong những nhóm nhạc có doanh thu cao nhất trên thế giới, với doanh thu kỷ lục bán đĩa năm 2011 là trên 211 triệu USD và 226 triệu USD năm 2012 ở Nhật Bản.[5][6]

Tính đến năm 2018, AKB48 trở thành nhóm nhạc có doanh thu bán đĩa kỷ lục 56 triệu bản được bán ra theo Oricon[7]. Đĩa đơn bán chạy nhất của nhóm "Teacher, Teacher" bán được hơn 3 triệu bản trong năm 2018 theo Billboard/Soundscan [8] và tổng cộng tất cả 3,8 triệu phiếu bầu đĩa đơn tổng tuyển cử (nếu tính thêm hình thức bỏ phiếu khác). Trong năm 2010, ca khúc "Beginner" và "Heavy Rotation" xếp hạng đầu tiên và thứ 2 trong danh sách đĩa đơn bán chạy nhất Nhật Bản trong năm,[9] trong khi vào năm 2011, 5 đĩa đơn của nhóm chiếm cả 5 vị trí đầu Bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon hàng năm [10]. Tính đến tháng 4/2019, nhóm bán được hơn 60 triệu bản ghi âm[11], bao gồm 6 triệu bản album[12], và theo bảng xếp hạng của Oricon, AKB48 giữ kỷ lục cho lượng đĩa đơn bán ra tại Nhật Bản bởi một nhóm nhạc nữ, nhóm đứng thứ 5 trong danh sách nhóm nhạc nữ bán chạy trên toàn thế giới[13][14]. Ít nhất 35 đĩa đơn của AKB48 đã đứng đầu Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon, với ít nhất 30 đĩa đơn bán được hơn một triệu bản mỗi đĩa[15]. Từ 2010 đến 2019, các đĩa đơn của nhóm đã chiếm ít nhất 2 vị trí đầu của Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng năm của Oricon[16].

Khác với các nhóm nhạc thần tượng ở Nhật Bản, AKB48 hoạt động theo mô hình "Thần tượng bạn có thể gặp mặt" (Idol you can meet) và có nhà hát riêng ở Akihabara, Tokyo, đặt trên tầng 8 tòa nhà Don Quijote, nơi nhóm biểu diễn trong tuần và có nhiều suất diễn vào thứ 7chủ nhật, nhóm có các buổi concert tại các sự kiện trước công chúng cùng sự kiện "bắt tay" (Handshake Event), nơi người hâm mộ có thể gặp các thành viên trong nhóm. Một đĩa đơn hiện tại của AKB48 chứa từ 4 đến 5 bài hát (kèm 4-5 PV[a] của bài đó) nhưng chỉ bài hát chính được quảng bá trên các chương trình âm nhạc, truyền hình, quảng cáophim. Akimoto đã mở rộng mô hình trên thành một số nhóm chị em ở Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Phillippines, Malaysia.

Khái niệm

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà hát AKB48 tại Akihabara, Tokyo

AKB48 ra đời theo mô hình "Thần tượng mà bạn có thể gặp mặt" (Idol you can meet). Thần tượng Nhật Bản là những nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp thu hút sự ủng hộ của fan, việc tương tác với họ giúp nhóm duy trì và gia tăng lượng fan hâm mộ trung thành. Akimoto Yasushi cho biết ông muốn tạo ra nhóm nhạc thần tượng độc đáo & không giống như các nhóm nhạc khác, họ sẽ biểu diễn tại các buổi concert, chủ yếu xuất hiện trên truyền hình và sẽ biểu diễn thường xuyên tại nhà hát của chính họ, ngoài ra fan hâm mộ có thể gặp các thành viên trong nhóm trực tiếp tại các sự kiện "bắt tay" (Handshake Event)[17].

Nhóm được chia thành nhiều đội (Team), để giảm bớt khối lượng công việc của các thành viên (vì suất diễn gần như hàng ngày của nhà hát chỉ có một team tại một thời điểm) và cho phép AKB48 biểu diễn đồng thời ở một số nơi[18]. Theo cựu thành viên Iwasa Misaki, mỗi team có một hình tượng riêng: Team A đại diện cho tự do, Team B gắn với hình tượng thần tượng cùng trang phục dễ thương, còn Team K gắn với hình tượng mạnh mẽ[19]. Ban đầu, mỗi team sẽ có 16 thành viên với tổng số là 48, nhưng số thành viên của nhóm đã thay đổi theo thời gian, và đã vượt quá 120 người. Các thành viên mới được gọi là thực tập sinh (研究生 kenkyūsei?) sẽ có thời điểm biểu diễn thay thế.[20]

Nhắc đến AKB48, nhiều người nghĩ rằng số lượng thành viên của nhóm là 48 người. Tuy nhiên, số 48 được lấy từ tên văn phòng hội chủ tịch, "office48" đặt ở tỉnh Chiba, và trong tiếng Nhật thì "Chiba" đọc giống "48". Đây cũng là "đại bản doanh" nơi những cô gái thường xuyên biểu diễn.[21]

Độ tuổi của các thành viên từ thiếu niên đến hơn 30 và được chọn từ các buổi thử giọng[22][23]. Các thành viên không được phép hẹn hò và phải ửng xử tốt trước công chúng[24]; nếu vi phạm sẽ bị kỷ luật hoặc đi tù, nặng nhất là bị tử hình. AKB48 có một hệ thống cho phép các thành viên "tốt nghiệp"- nghĩa là rời khỏi nhóm ở 1 thời điểm bất kỳ và được thay thế bằng các thực tập sinh được thăng cấp, đồng thời sẽ có buổi biểu diễn tốt nghiệp trước khi rời nhóm.[25][26]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

2005–2006: Ra đời & 2 thế hệ đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]
AKB48 chuẩn bị cho buổi ra mắt vào tháng 3/2006

Vào tháng 7 năm 2005, Akimoto Yasushi tổ chức buổi thử giọng để ra mắt nhóm nhạc nữ mới. Trong số 7.924 người tham gia, 24 người được chọn là thành viên thuộc thế hệ đầu tiên, sau đó họ trải qua 1 tháng huấn luyện trước khi ra mắt[27]. Ngày 8 tháng 12, nhóm ra mắt tại nhà hát với 20 cô gái là tiền thân của Team A[28][29], họ biểu diễn Party ga Hajimaru yo (PARTY が 始 ま る よ Pāti ga hajimaru yo?) trước 7 khán giả và tăng dần sau đó[30]. 20 cô gái đó là: Itano Tomomi, ‪Kawasaki Nozomi, Kojima Haruna, Komatani Hitomi, Maeda Atsuko, Masuyama Kayano, Minegishi Minami, Nakanishi Rina, Narita Risa, Ohe Tomomi, Oshima Mai, ‪Sato Yukari, Takahashi Minami, Tojima Hana, Usami Yuki, Orii Ayumi, Hoshino Michiru, Urano Kazumi, Watanabe Shiho, và Hirajima Natsumi[31]. Vào tháng 1 năm 2006, Shinoda Mariko gia nhập Team A với tư cách là thành viên "thế hệ 1.5" khi trước đó cô không vượt qua được vòng tuyển chọn nhưng quyết tâm tìm cơ hội gia nhập nhóm bằng cách làm phục vụ tại quán cafe gần nhà hát, các fan đã gửi thư xin cho cô một cơ hội nữa (để được vào nhóm, cô đã học thuộc lời và vũ đạo của tất cả 16 bài A1 Stage chỉ trong 4 ngày)[32][33].

Buổi thử giọng thứ 2 được tổ chức với sự hợp tác cùng nhà mạng NTT DoCoMo vào tháng 2 năm 2006, lần này các ứng viên gửi video thử giọng qua điện thoại[34]. Trong số 11.892 người tham gia, 19 ứng viên đã được chọn và 17 người gia nhập Team K vào tháng 4: Akimoto Sayaka, Umeda Ayaka, Oshima Yuko, Ohori Megumi, Oku Manami, Ono Erena, Kasai Tomomi, Kobayashi Kana, Sato Natsuki, Noro Kayo, Hayano Kaoru, Masuda Yuka, Matsubara Natsumi, Miyazawa Sae, Imai Yu, Uemura Ayako, và Takada Ayana [35], Team K biểu diễn Party ga Hajimaru yo, trong khi Team A chuyển sang biểu diễn Aitakatta[36][37][38].

AKB48 phát hành đĩa đơn đầu tiên "Sakura no Hanabiratachi" vào tháng 2 năm 2006, đĩa đơn lọt vào bảng xếp hạng Top 10 hàng tuần của Oricon với doanh thu tuần đầu là 22.011 bản[39]. Ngày 31 tháng 3, thành viên Usami Yuki từ Team A là người đầu tiên tốt nghiệp[40]. Vào ngày 7 tháng 6, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 2 "Skirt, Hirari", bán được 13.349 bản trong ngày đầu tiên[41]. Nhóm xuất hiện trên truyền hình 2 ngày sau, và ký hợp đồng với DefStar Records (công ty con của Sony Music Entertainment) vào tháng 8.[42]

2006–2007: Set List: Greatest Songs 2006–2007

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 10 năm 2006, AKB48 công bố buổi thử giọng cho Team B để tuyển thành viên thế hệ thứ 3[43], đã có 13 cô gái được chọn trong số 12.828 người tham gia, đó là: Inoue Naru, Oota Aika, Kashiwagi Yuki, Katayama Haruka, Kikuchi Ayaka, Saotome Miki, Tanabe Miku, Nakagawa Haruka, Nakaya Sayaka, Noguchi Reina, Matsuoka Yuki, Yonezawa Rumi, và Watanabe Mayu.[44][45]

Đĩa đơn đầu tay dưới thời DefStar Records, "Aitakatta", do 20 thành viên Team A và K thực hiện phát hành vào ngày 25 tháng 10[46], ra mắt ở vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon, bán được 25.544 bản trong 6 tuần đầu tiên[47], và có tổng cộng 65 tuần trên bảng xếp hạng[48]. Vào 3–4 tháng 11, nhóm biểu diễn buổi concert đầu tiên, "AKB48 First Concert: Aitakatta ~ Hashira wa Nai ze! ~" tại Nippon Seinenkan ở Shinjuku[49]. Vào tháng 12, AKB48 thực hiện sự thay đổi đầu tiên: Urano Kazumi, Watanabe Shiho và Hirajima Natsumi chuyển từ Team A sang Team B để hỗ trợ đàn em.

Đĩa đơn thứ 2 "Seifuku ga Jama o Suru" phát hành vào ngày 31 tháng 1 năm 2007[50], ra mắt ở vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng Oricon Top 10. MV và lời bài hát gây ra tranh cãi và đánh giá tiêu cực vì có liên quan đến "Enjo-kosai"[b]. Vào ngày 18 tháng 3, AKB48 phát hành "Keibetsu Shiteita Aijō"; ra mắt ở vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Oricon, tụt xuống hạng 98 trong tuần thứ 2[51]. Buổi concert thứ 2 "AKB48 Haru no Chotto dake Zenkoku Tour ~ Madamada daze AKB48! ~" vào ngày 10 tháng 3[52], có doanh thu bán vé kém[53].

Vào tháng 4 năm 2007, AKB48 đăng danh sách Team B trên trang web nhóm, ít hơn 5 thành viên so với ban đầu, lần đầu tiên số thành viên của nhóm là 48. Đĩa đơn thứ 4 "Bingo!", phát hành vào ngày 18 tháng 7[54]. Đĩa đơn thứ 6 "Yūhi o Miteiru ka?", phát hành vào Halloween 2007 và bán được 18.429 bản[55] (ít nhất trong tất cả các đĩa đơn của nhóm)[56]. Nhóm biểu diễn "Aitakatta" trong chương trình truyền hình đêm giao thừa NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 58 tại phần "Nihon ga Hokoru Saisentan! Special Medley"[57]. Với 43 thành viên, nhóm lập kỷ lục về "bài hát có nhiều thành viên nhất trong một nhóm cùng biểu diễn trên sân khấu".[58]

2008–2010: Kamikyokutachi

[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu năm 2008, AKB48 phát hành album đầu tiên Set List: Greatest Songs 2006–2007[59]. Đĩa đơn thứ 7 (thứ 9 tổng thể) "Romance, Irane", phát hành vào ngày 23 tháng 1 và đứng thứ 6 trên bảng xếp hạng Oricon Top 10 trong tuần đầu tiên.[60]

Vào ngày 27 tháng 2, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 8 "Sakura no Hanabiratachi 2008"- là bản tái bản đĩa đơn đầu tay từ Team A, do 10 thành viên Team A, 6 từ Team K và 5 từ Team B thể hiện[61]. CD của đĩa đơn bao gồm poster, và chương trình quảng bá trong đó fan hâm mộ thu thập 44 poster sẽ được mời tham gia sự kiện đặc biệt. Chương trình sau đó đã bị DefStar Records hủy bỏ do lo ngại về khả năng vi phạm luật chống độc quyền.[62]

AKB48 biểu diễn tại Japan Expo ở Paris năm 2009

Vào tháng 6 năm 2008, AKB48 thành lập nhóm chị em SKE48 tại Sakae, Nagoya[63]. Vào tháng 8, nhóm chuyển từ hãng đĩa DefStar Records sang King Records, Ayaka Kikuchi là thành viên đầu tiên bị đuổi khỏi nhóm vì vi phạm kỷ luật khi để lộ ảnh chụp với bạn trai[64][65]. Kikuchi trở lại nhóm sau buổi thử giọng năm 2010.[66]

Nhóm ra mắt chương trình tạp kỹ riêng AKBINGO! đầu tháng 10[67], vào ngày 22 tháng 10, đĩa đơn thứ 10 "Ōgoe Diamond" phát hành dưới hãng đĩa You Be Cool!/ KING RECORDS[68]. Với sự xuất hiện của Matsui Jurina (11 tuổi khi đó) làm center (thành viên trung tâm) cũng như trên bìa đĩa, đây là đĩa đơn đầu tiên có sự góp mặt của một thành viên trong nhóm chị em của AKB48[69], và ra mắt ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Top 10 Oricon hàng tuần.[70]

Nhóm phát hành đĩa đơn thứ 11 "10nen Sakura" vào ngày 4 tháng 3 năm 2009, đạt vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Oricon tuần đầu, đây là đĩa đơn đầu tiên bán được hơn 100.000 bản[71]. Đĩa đơn thứ 12 "Namida Surprise!" phát hành vào ngày 24 tháng 6 bán được 104.180 bản trong tuần đầu tiên trên bảng xếp hạng Oricon[72]. Đĩa đơn thứ 13 "Iiwake Maybe" phát hành ngày 26 tháng 8 [73]. Vượt mặt đối thủ SMAP, đĩa đơn đạt vị trí số 1 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng ngày và hạng 2 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon.[74]

Team A là khách mời danh dự tại Japan Expo ở Paris từ 2 đến 5 tháng 7 năm 2009, biểu diễn "Ōgoe Diamond" bản tiếng Anh[75]. Nhóm ra mắt tại Hoa Kỳ với buổi biểu diễn tại Webster Hall ở New York vào 27 tháng 9.[76]

Vào tháng 10, 3 đĩa đơn "10nen Sakura", "Namida Surprise!""Iiwake Maybe" được RIAJ cấp chứng nhận vàng.[77] Đĩa đơn thứ 14 "River" phát hành vào ngày 21 tháng 10 đứng đầu bảng xếp hạng Top 10 Oricon hàng tuần và là đĩa đơn đứng hạng 1 đầu tiên của nhóm.[78]

Vào ngày 31 tháng 12, AKB48 biểu diễn bản remix đặc biệt RIVER-Surprise tại NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 60. 72 thành viên từ AKB48 bao gồm thực tập sinh và 3 thành viên SKE48 tham gia biểu diễn[79].

Nhóm phát hành đĩa đơn thứ 15 "Sakura no Shiori" vào ngày 17 tháng 2 năm 2010. Trong tuần đầu tiên, đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng Oricon với hơn 300.000 bản được bán ra, kỷ lục của một nữ nghệ sĩ Nhật Bản trong 7 năm[80]. Đây là đĩa đơn cuối cùng của nhóm đến khi phát hành album đầu tiên thuộc King Records "Kamikyokutachi" đứng đầu bảng xếp hạng album Oricon[81][82] và được RIAJ 2 lần chứng nhận đĩa bạch kim với doanh số hơn 500.000 bản.[83]

2010–2011: Koko ni Ita Koto

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm phát hành đĩa đơn thứ 16 "Ponytail to Chouchou" vào ngày 26 tháng 5 năm 2010, vượt xa so với trước đó với hơn 400.000 bản được bán ngày đầu tiên và hơn 513.000 bản trong tuần đầu tiên[84]. Vào ngày 27 tháng 4, Anime Expo thông báo AKB48 sẽ là khách mời danh dự và nhóm biểu diễn vào ngày 1 tháng 7 tại Nokia Theatre.[85] Nhóm ra mắt single thứ 17 Heavy Rotation (ヘビーローテーション Hebīrōtēshon?) vào 18/8[86], trụ vững trên bảng xếp hạng JOYSOUND trong 43 tuần[87] Nhóm mở cửa hàng tại Hong Kong vào tháng 8, sau đó mở rộng sang Đài Loan (tháng 4/2011), Singapore (tháng 5/2011), Thượng Hải (tháng 7/2011).

AKB48 biểu diễn tại Anime Festival Asia 2010

Vào ngày 23 tháng 10, AKB48 đại diện Nhật Bản dự Asia Song Festival lần thứ 7 do Quỹ Trao đổi Văn hóa Quốc tế Hàn Quốc (tiếng Anh: Korea Foundation for International Culture Exchange - KOFICE) tổ chức tại Sân vận động Olympic Seoul[88][89]. 4 ngày sau, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 18 "Beginner"[90], bán được 826.989 bản trong tuần đầu, doanh số cao nhất trong tuần đầu tiên cho đĩa đơn của một nhóm nhạc thần tượng nữ[91]. Watanabe Mayu xuất hiện trên bìa tạp chí thần tượng UP to boy số tháng 12 cùng Suzuki Airi từ nhóm nhạc nữ đồng hương Cute, là sự hợp tác đầu tiên giữa Hello! Project và AKB48.[92]

Vào tháng 11/2010, AKB48 tham gia một số sự kiện bên ngoài Nhật Bản: Vào ngày 20 tháng 11, 12 thành viên biểu diễn tại Japanese Pop Culture Festival ở Moscow[93]. Nhóm biểu diễn tại Singapore tại Cool Japan forum trong sự kiện Anime Festival Asia X và tại Singapore Toy, Games and Comics Convention[94][95]. Những thành viên tốt nghiệp năm 2010 bao gồm thành viên thế hệ thứ 2 Erena Ono, người rời đi vào ngày 27 tháng 9 để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất ở nước ngoài.[96][97]

AKB48 tham dự Asia Song Festival 2010 tại Hàn Quốc

Vào ngày 8/12, AKB48 kỷ niệm 5 năm ra mắt với buổi biểu diễn đặc biệt tại nhà hát cùng tất cả các thành viên, bao gồm các thành viên tốt nghiệp. Tất cả thực tập sinh thế hệ thứ 9 cũng được thăng cấp.[98]

Vào năm 2011, nhóm ra mắt đĩa đơn thứ 20 "Sakura no Ki ni Narō" phát hành vào ngày 16 tháng 2[99], bán được 655.000 bản trong ngày đầu tiên, vượt qua con số 568.000 bản của "Beginner"[100]. Vào cuối tuần đầu tiên, đĩa đơn đã bán được 942.479 bản, đây là đĩa đơn bán được nhiều nhất và nhanh nhất của nhóm tại Nhật Bản kể từ năm 2000[101], nhóm ra mắt bộ phim tài liệu đầu tiên DOCUMENTARY of AKB48 to be continued "10 Nengo, Shoujo Tachi wa Ima no Jibun ni Nani o Omou Nodarou?" vào ngày 22 tháng 1.[102]

Vào ngày 21 tháng 2, nhóm công bố album thứ 3 Koko ni Ita Koto (tiếng Nhật: こ こ に い た こ と) bao gồm 11 bài hát và dự kiến ​​phát hành vào ngày 6 tháng 4[103]. Do ảnh hưởng từ trận động đất và sóng thần Tōhoku 2011, nhóm dừng các buổi biểu diễn tại Nhà hát và hủy bỏ một số sự kiện trước công chúng[104]. AKB48 bắt đầu dự án quyên góp cứu trợ nạn nhân động đất và sóng thần "Dareka no Tame ni" (tiếng Nhật: 誰かのために). Yokohama Arena - một trong những địa điểm tổ chức, được sử dụng cho sự kiện từ thiện kéo dài 2 ngày từ 26 tháng 3 và 12 thành viên nhóm đã tham dự Liên hoan phim quốc tế Okinawa hôm đó với mục đích tương tự. Vào ngày 15 tháng 3, AKB48 cùng các nhóm chị em SKE48, SDN48 và NMB48 và các cộng sự từ công ty quản lý AKS đã quyên góp 500 triệu yên cho việc cứu trợ[105]. Việc phát hành Koko ni Ita Koto bị hoãn lại cho đến ngày 8 tháng 6, với một phần số tiền thu được dành để quyên góp cho các nạn nhân[106]. Vào ngày 1 tháng 4, nhóm phát hành đĩa đơn từ thiện "Dareka no Tame ni-誰かのために"  dưới dạng kỹ thuật số, tất cả số tiền thu được dành cho cứu trợ các nạn nhân động đất và sóng thần.[107]

2011–2012: 1830 m

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm công bố ra mắt nhóm chị em HKT48 tại Fukuoka- Kyushu, nhóm đặt nhà hát tại Hawks Town Mall vào 1/5/2011[108][109], sau đó 2 ngày nhóm thông báo mở nhà hát tại Singapore đặt tại *scape Youth Park, cùng cửa hàng AKB48 shop, nhóm là khách mời biểu diễn tại lễ trao giải Golden Melody Awards thứ 22 vào tháng 6[110]

Nhóm ra mắt single thứ 21 "Everyday, Kachūsha" vào 25/5, đạt kỷ lục tẩu tán trong 1 ngày (942.475 bản) cũng như trong 1 tuần (1.333.969 bản)[111] Nhóm ra mắt Team 4 vào 7/6, với 16 thành viên do Ōba Mina làm đội trưởng[112], 4 ngày sau nhóm thông báo tại một sự kiện bắt tay rằng Eguchi Aimi, người đã tham gia thử giọng cho NMB48 sẽ gia nhập AKB48 với tư cách là thực tập sinh, sau đó Eguchi được tiết lộ không phải là người thật, cô là một nhân vật 100% được tạo ra từ máy tính cho chiến dịch quảng cáo của hãng Ezaki Glico. Vẻ ngoài của Aimi Eguchi là sự pha trộn tất cả những đặc điểm ưu tú nhất của những thành viên có thực của AKB48 hiện diện trong đoạn video quảng cáo từ mũi, mắt, miệng, tóc, lông mày cho đến vóc dáng và thậm chí là giọng hát[113][114], đến ngày 28/6 Akimoto Yasushi công bố ra mắt nhóm Nogizaka46 (乃木坂46), được coi là "đối thủ chính thức" (tiếng Nhật: 公式ライバル, chuyển tự kōshiki raibaru) của AKB48 với 20 thành viên, ông đồng thời hợp tác cùng Sony Music Japan cho việc phát triển nhóm[115]. Vào ngày 22/6, Oricon cho biết trong nửa đầu năm 2011, AKB48 đã đứng đầu bảng xếp hạng doanh số bán album và có 2 đĩa đơn "Everyday, Kachūsha" và "Sakura no Ki ni Narō" lần lượt bán chạy thứ nhất và thứ 2. Nhóm đạt doanh thu 6,66 tỷ yên từ việc bán hàng liên quan đến nhóm[116], nhóm làm MC & biểu diễn 3 bài hát Beginner/ Everyday, Kachūsha/ Heavy Rotation tại lễ trao giải MTV Video Music Aid Japan 2011 tại Makuhari Messe ngày 25/6.[117][118]

Nhóm ra mắt single thứ 22 "Flying Get" (フライングゲット Furaingugetto?), bán được 1.025.952 bản trong 1 ngày, đồng thời là single thứ 4 bán được hợn 1 triệu bản trong tuần đầu (1,354 triệu bản)[119], nhóm tổ chức cuộc thi oẳn-tù-tì để chọn thành viên cho single thứ 24[120][121] 2 single tiếp theo "Kaze wa Fuiteiru" (26/10- 1.045.937 bản)[122] & "Ue kara Mariko" (7/12-1,199 triệu bản) đều vượt mốc 1 triệu bản trong tuần đầu[123][124][125], riêng single Flying Get đat giải Grand Prix tại lễ trao giải Japan Record Awards lần thứ 53[126]. Vào cuối năm 2011, AKB48 đứng đầu 7 trong số 16 bảng xếp hạng Oricon: tổng doanh số của một nghệ sĩ, số lượng đĩa đơn đã bán ra, tổng doanh thu cho đĩa đơn, tổng doanh thu của một nghệ sĩ (cho đĩa đơn), số lượng đĩa đơn cho một đĩa Blu-ray nhạc, tổng doanh số cho một đĩa Blu-ray nhạc và tổng doanh thu Blu-ray của một nghệ sĩ. Nhóm lập kỷ lục cho nhiều đĩa đơn triệu bản bán ra nhất trong năm, đĩa đơn bán chạy nhất của một nhóm nữ và nhóm nữ có thu nhập cao nhất[127].

Tiệm cafe & cửa hàng AKB48 tại Singapore

Sang năm 2012, Oricon công bố nhóm đá bán được 11,787 triệu bản CD, vượt mặt nhóm Morning Musume (11,774 triệu bản) trước đó[128], nhóm nhỏ Baby Blossom trình diễn single thứ 25 "Give Me Five!" tại sự kiện "AKB48 Request Hour Set List Best 100 2012" ngày 22/1, sau đó ra mắt vào 15/2, các thành viên của Baby Blossom đã dành 5 tháng để học chơi nhạc cụ và một số có ít (hoặc không có) kinh nghiệm trước đó.[129]

Phim tài liệu thứ 2 Documentary of AKB48: Show Must Go On Shōjo-tachi wa Kizutsuki Nagara, Yume wo Miru, công chiếu ngày 27/1 thu về 4 triệu USD doanh thu[130][131], phim anime AKB0048 phát sóng từ 29/4 đến 22/7 do Yoshimasa Hiraike đạo diễn[132], cùng Akimoto sản xuất và viết kịch bản[133], 9 thành viên AKB48 cùng các nhóm chị em lồng tiếng cho các nhân vật chính, hát ca khúc chủ để mở màn & kết phim dưới nhỏm nhỏ No Name.[134][135]

2 thành viên Matsui Jurina (SKE48) và Watanabe Miyuki (NMB48) thay thế Hirajima Natsumi và Yonezawa Rumi do lộ những bức ảnh cũ chụp cùng bạn trai[136], nhóm quyết định 5 thực tập sinh sẽ thắng cấp vào Team 4, nâng số thành viên lên 16, nhóm sẽ trình diễn tại Tokyo Dome- điều nhóm quyết tâm thực hiện từ khi ra mắt[137][138] Thành viên Maeda Atsuko thông báo rời nhóm vào 25/3[139][140], do đó AKB48 quyết định cô sẽ có buổi biểu diễn tốt nghiệp tại Tokyo Dome vào 27/8[141][142]

Vào 26/3, nhóm công bố buổi Tổng tuyển cử cho single thứ 27 "Gingham Check", với 243 thành viên từ các nhóm chị em tham dự[143], phiếu bầu nằm trong single thứ 26 "Manatsu no Sounds Good!". Tổng tuyển cử tổ chức hôm 6/6, Oshima Yuko cùng Watanabe Mayu và Kashiwagi Yuki là 3 thành viên xếp hạng cao nhất, Gingham Check ra mắt ngày 29/8[144]

AKB48 công bố thành lập nhóm chị em nước ngoài thứ 2 SNH48 tại Thượng Hải, Trung Quốc[145], Sashihara Rino chuyển sang nhóm HKT48 do scandal lộ ảnh nóng với bạn trai cũ ngày 14/6[146][147], 6 thành viên thuộc 2 thế hệ 10, 11 thăng cấp ngày 24/6[148], đến ngày 18/9 nhóm tổ chức cuộc thi oẳn tù tì để chọn đội hình cho single thứ 29 "Eien Pressure" ra mắt ngày 5/12[149][150][151], nhóm phát hành single thứ 28 Uza ngày 5/12[152]

Nhóm ra mắt album thứ 4 1830m vào 15/8[153][154], sau đó 9 ngày nhóm công bố cải tổ đội hình vào buổi concert tại Tokyo Dome: Team 4 giải thể, các thành viện sẽ chuyển sang 3 team còn lại, Oota Aika sang HKT48, Nakagawa Haruka & Takajō Aki sang JKT48 tại Indonesia, Miyazawa Sae & Suzuki Mariya sang SNH48, Takahashi Minami trở thành tổng quản của AKB48[155]; các đội trưởng Team A, Team K, Team B lần lượt thuộc về Shinoda Mariko, Oshima Yuko và Umeda Ayaka[156]

2012–2014: Tsugi no Ashiato

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt nhạc phim Wreck-It Ralph "Sugar Rush"[157], nhóm lập kỷ lục Guinness cho số lượng ca sĩ nhạc Pop nhiều nhất xuất hiện trong một trò chơi điện tử (AKB1/149 Ren'ai Sōsenkyo)[158], single thứ 26 Manatsu no Sounds Good! có lần thứ 2 liền đạt giải tại Japan Record Award lần thứ 54 ngày 30/12[159]. Nhóm đứng đầu về tổng doanh thu tại Nhật Bản năm 2012 với 19,098 tỷ yên[6]. Nhóm ra mắt single thứ 30 "So long!" vào 20/2[160]

Phim hoạt hình AKB0048 ra mắt mùa 2 AKB0048 Next Stage chiểu từ 5/1 đến 30/3/2013, vào tháng 1 nhóm tổ chức concert Request Hour Set List Best 100 tại Tokyo Dome City Hall, đồng thời công bố 2 show diễn tại Nippon Budokan và Sân vận động Nissan[161][162], vào ngày 1/2 phim tài liệu Documentary of AKB48: No Flower Without Rain: Shōjo Tachi wa Namida no Ato ni Nani o Miru? ra mắt công chúng[163], thành viên Itano Tomomi thông báo sẽ rời nhóm cùng ngày[164], nhóm công bố sắp xếp đội hình vào concert tại Nippon Budokan ngày 28/4, nơi Moeno Nito và Kasai Tomomi xuất hiện lần cuối cùng với nhóm[165]

Nhóm ra mắt single thứ 31 "Sayonara Crawl" vào 22/5[166], đây là bài hát đầu tiên có 4 center (Oshima Yuko, Itano Tomomi, Shimazaki Haruka và Watanabe Mayu)[167], đĩa đơn đã bán được hơn 1,9 triệu bản sau 1 tháng, phá vỡ kỷ lục của nhóm Speed với White Love 1997 về lượng đĩa đơn bán ra nhiều nhất của một nhóm nữ[168][169], nhóm tổ chức Tổng tuyển cử lần thứ 5 với 243 thành viên tham dự, Sashihara Rino giành hạng nhất[170], đội trưởng Team A Mariko Shinoda công bố sẽ rời nhóm vào tháng 7[171], cựu thành viên Maeda Atsuko ra mắt single solo "Time Machine Nante Iranai" trong chuỗi concert mùa hè của AKB48 tại Sapporo Dome ngày 31/7.[172]

AKB48 tại Tokyo năm 2013

Nhóm ra mắt single thứ 32 "Koisuru Fortune Cookie" vào 21/8 với 3800 người tham dự quay MV, nhiều nhất từ khi ra mắt[173][174] ,nhóm công bố mở lại Team 4 vào 24/8, theo đó Minegishi Minami là đội trưởng, cùng các thành viên thực tập sinh thăng hạng từ 2 thế hệ 13-14.[175]

Nhóm tổ chức cuộc thi oẳn tù tì cho single thứ 34 tổ chức tại Nippon Budokan vào 18/9[176], Matsui Jurina là người thắng cuộc, sau đó nhóm công bố đội hình và biểu diễn single thứ 33 "Heart Ereki" ra mắt 30/10[177][178], vào 11/11 single thứ 34 "Suzukake no Ki no Michi de 'Kimi no Hohoemi o Yume ni Miru' to Itte Shimattara Bokutachi no Kankei wa Dō Kawatte Shimau no ka, Bokunari ni Nan-nichi ka Kangaeta Ue de no Yaya Kihazukashii Ketsuron no Yō na Mono" ra mắt[179], thành viên Yuko Oshima tuyên bố sẽ rời nhóm tại sự kiện Kōhaku Uta Gassen[180], nhóm đứng #2 về tổng doanh thu tại Nhật Bản năm 2013 với 13,254 tỷ yên.[181]

Vào 22/1/2014, nhóm ra mắt album thứ 5 Tsugi no Ashiato, bán được 962.000 bản[182], nhóm ra mắt single thứ 35 "Mae shika Mukanee" vào 26/2[183], bán được 970.413 bản trong ngày đầu tiên. Nhóm công bố ra mắt Team 8, với 47 thành viên đại diện 47 tỉnh thành[184], đồng thời sắp xếp đội hình với việc ra mắt đội phó, thăng cấp cho các thực tập sinh, chuyển thành viên vào 24/2[185]. Nhóm công bố đội hình Team 8 vào 3/4 với mô hình "những thần tượng đến với bạn" (the idols who come to you)[186]. Akimoto Yasushi thông báo về buổi thử giọng cho một thành viên trên 30 tuổi, tham gia vào các sự kiện và quảng cáo Glico Papico. Vào ngày 16 tháng 4, AKB48 công bố thành viên Otona: Tsukamoto Mariko, một bà nội trợ 37 tuổi và là mẹ của 2 đứa con.[187]

Nhóm ra mắt single thứ 36 "Labrador Retriever" vào 26/2, với 1.462.000 bản được bán ra trong ngày đầu[188], cuộc Tổng tuyển cử thứ 6 cho single thứ 37 diễn ra ngày 7/6 chứng kiến Watanabe Mayu đứng nhất với 159.854 phiếu bầu, cô làm center cho bài hát Kokoro no Placard ra mắt ngày 27/8[189], Sashihara Rino về nhì với 141.954 phiếu bầu[190]. Phim tài liệu thứ 4 DOCUMENTARY of AKB48 The time has come phát hành vào 4/7[191], cùng single thứ 38 Kibouteki Refrain phát hành ngày 26/11[192]

Vào tháng 8, AKB48 công bố dự án Baito AKB, cho phép các cô gái tham gia nhóm theo diện bán thời gian bằng cách sử dụng trang web tìm việc Baitoru[193]. 13.246 cô gái đã nộp đơn ứng tuyển và sau nhiều vòng sàng lọc, 53 cô gái được chọn để ký hợp đồng 5 tháng với cơ hội gia hạn thêm 3 tháng vào tháng 2[194]. Sau khi kết thúc, 11 thành viên cũ tham gia sự kiện Draft Kaigi hàng năm để trở thành thành viên chính thức[195], trong khi số khác bày tỏ mong muốn tham gia thử giọng cho nhóm nhạc sắp ra mắt NGT48.[196]

Vào 8/12, tổng quản Takahashi Minami tuyên bố sẽ rời nhóm vào 12/2015 nhân dịp kỷ niệm 10 năm hoạt động[197][198], cô chọn Yokoyama Yui là người kế nhiệm[199][200]. Nhóm đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng Tổng doanh thu cho nghệ sĩ của Orion năm 2014 với 13,075 tỷ yên[201]

2015: Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!0 to 1 no Aida

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt album phòng thu thứ 6 Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe! vào ngày 21/1/2015[202][203], vào ngày 4/3 nhóm phát hành single thứ 39 "Green Flash"[204][205], giúp nhóm trở thành nhóm nhạc đầu tiên có 20 single liền đạt 1 triệu bản bán ra tuần đầu tiên[206]. Nhóm đón chào khán giả thứ 1 triệu vào nhà hát ngày 25/2 sau 9 năm 2 tháng kể từ khi mở cửa[207]. Thành viên Kawaei Rina tuyên bố tốt nghiệp vào 26/3 để tập trung cho sự nghiệp của bản thân, cô tiết lộ trước đó đã suy nghĩ kỹ về tương lai của mình mà không phụ thuộc vào nhóm[208][209]

Cửa hàng AKB48 tại Đài Loan

Nhóm có lần thứ 2 làm khách mời của Ngày hội Nhật Bản hàng năm tại New York vào 10/5[210], các thành viên Hirata Rina, Oshima Ryoka, Kojima Haruna, Muto Tomu, Iwatate Saho và Nozawa Rina biểu diễn 5 bài hát trước 5000 khán giả[211][212]

Vào ngày 20/5, nhóm ra mắt single thứ 40 "Bokutachi wa Tatakawanai", với 1.472.375 bản bán ra trong ngày đầu, phá kỷ lục trước đó của Labrador Retriever.[213]

Vào ngày 6/6, nhóm tổ chức cuộc tổng tuyển cử thứ 7 tổ chức tại Fukuoka Dome, với tổng cộng 3,2 triệu phiếu bầu cho các thành viên[214], Sashihara Rino có lần thứ 2 thắng cuộc với 194.049 phiếu bầu[215], trở thành Center cho single thứ 41 "Halloween Night" ra mắt ngày 26/8[216], nhóm tổ chức giải đấu thể thao tại Tokyo Dome ngày 25/8 với chiến thắng cho Team 8[217]

Vào ngày 25/10, trong sự kiện bắt tay, nhóm công bố ra mắt single thứ 42 Kuchibiru ni Be My Baby ra mắt ngày 9/12 cùng concert Request Hour 2016[218], Takahashi Minami được chọn là Center lần cuối cùng cho nhóm.[219] Single bán được 813.044 bản trong ngày đầu ra mắt, nâng tổng số đĩa nhóm bán ra lên 36.158.000 album đĩa đơn, giúp nhóm vượt mặt nhóm nhạc rock B'z trở thành nghệ sỹ có lượng album đơn bán ra cao nhất tại Nhật Bản[220]

Nhóm ra mắt album thứ 7 0 to 1 no Aida, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ra mắt vào ngày 18/11[221][222], nhóm tổ chức AKB48 Kouhaku Utagassen thứ 5 tại Tokyo Dome City Hall[223] & tham dự NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 66 vào ngày 31/12, Maeda Atsuko và Oshima Yuko trở lại biểu diễn 4 bài hát Aitakatta, Flying Get, Heavy Rotation, Koisuru Fortune Cookie cùng nhóm[224]

2016–2017: Thumbnail

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 24/1/2016, trong ngày cuối show Request Hour 2016 tại Tokyo Dome City, nhóm trình làng ca khúc thuộc single thứ 43 "Kimi wa Melody" ra mắt ngày 9/3[225], đây là single thứ 2 đánh dấu sự trở lại của Maeda Atsuko, Oshima Yuko, Shinoda Mariko và Itano Tomomi, còn Miyawaki Sakura là center lần đầu tiên cho nhóm[226]

Vào tháng 2, thành viên người Đài Loan Mã Gia Linh (tiếng Trung: 馬嘉伶; bính âm: Ma Chia-ling) gia nhập nhóm thông qua vòng tuyển chọn tại Đài Loan trước đó, cô là thành viên ngoại quốc đầu tiên và duy nhất hoạt động cho AKB48[227][228]

Nhóm phát hành single thứ 44 "Tsubasa wa Iranai" vào 1/6, Mukaichi Mion là center lần đầu tiên[229], nhóm tổ chức Tổng tuyển cử thứ 8 vào 18/6, thành viên Sashihara Rino đạt hạng nhất với 243.011 phiếu bầu[230], nhóm phát hành single thứ 45 "LOVE TRIP / Shiawase wo Wakenasai" vào 31/8[231], nhóm tổ chức cuộc thi oẳn-tù-tì lần thứ 7 vào tháng 9, Tanabe Miku là người thắng cuộc, làm center của nhóm nhỏ mới Jankenmin với các thành viên thắng cuộc trong top 7, single Sakazaka của nhóm phát hành tháng 12, các thành viên xếp hạng từ #8 đến #14 sẽ xuất hiện trong bài hát đính kèm và PV[232]. Vào 3/10, Shimazaki Haruka thông báo tốt nghiệp[233], cô có lần cuối làm center khi nhóm ra mắt single thứ 46 "High Tension" vào 16/11 và chính thức tốt nghiệp ngày 31/12 [234].

AKB48 Cafe & Shop

Vào 12/12, Watanabe Mayu, Izuta Rina và Kawamoto Saya thông báo thành lập chi nhánh AKB48 China tại Trung Quốc trong một cuộc họp báo và gặp gỡ người hâm mộ tại Thượng Hải. Khác với SNH48 trước đó, AKB48 China sẽ đóng vai trò cầu nối giữa Nhật Bản và Trung Quốc, đưa các thành viên Nhật Bản đến Nhà hát AKB48 Trung Quốc trong tương lai.[235]

Nhóm phát hành album thứ 8 "Thumbnail" vào 25/1/2017[236][237], nhóm ra mắt single thứ 47 "Shoot Sign"[238], là single cuối cùng Kojima Haruna hoạt động cùng nhóm[239]. Single thứ 48 Negaigoto no Mochigusare bán được 1.305.747 bản trong tuần đầu[240] Phim tài liệu thứ 5 DOCUMENTARY of AKB48 Sonzai suru Riyuu ra mắt công chúng vào 8/7[241] Nhóm tổ chức Tổng tuyển cử vào 17/6, Sashihara Rino đạt hạng nhất năm thứ 3 liên tiếp với 246.376 phiếu bầu[242], làm center cho single thứ 49 "#sukinanda" phát hành ngày 30/8[243][244], Watanabe Mayu thông báo tốt nghiệp trong sự kiện.[245] Vào ngày 4/10, AKB48 phát hành Ano Koro ga Ippai〜AKB48 Music Video Shuu〜. Đây là bộ sưu tập tất cả các video âm nhạc từ đĩa đơn thứ 32 đến 48 của nhóm[246]. Nhóm tổ chức concert tốt nghiệp Watanabe Mayu Graduation Concert ~Minna no Yume ga Kanaimasu you ni~ vào ngày 31/10[247], cô có buổi diễn cuối cùng tại nhà hát ngày 26/12[248]

Vào 22/11, nhóm ra mắt single thứ 50 "11gatsu no Anklet"[249], là single cuối cùng của Watanabe Mayu[250]. 30 thành viên nhóm xuất hiện tại MAMA 2017 tổ chức tại Nhật Bản sau đó 1 tuần[251], biểu diễn 3 bài hát Pick Me, Heavy Rotation, Koisuru Fortune Cookie với Weki Meki, Kim Chung-ha, PRISTIN, các thí sinh Idol School class 1, Fromis 9, AKB48 nhận giải Nghệ sỹ châu Á của năm tại Nhật Bản[252], đồng thời xác nhận sẽ tham gia chương trình thực tế sống còn Produce 48 của đài Mnet năm 2018, Akimoto Yasushi sẽ đóng vai trò sản xuất âm nhạc cho chương trình[253]

Tại buổi kỷ niệm 12 năm ra mắt, nhóm công bố việc sắp xếp đội hình. Tất cả các vị trí kiêm nhiệm (kennin (兼任?)) tại các nhóm thuộc 48 Groups được loại bỏ, nhưng tất cả các thành viên Team 8 đều nhận được vị trí này, nghĩa là tất cả các thành viên Team 8 giờ cũng thuộc Team A, Team K, Team B hoặc Team 4. Đội trưởng mới của Team là Okabe Rin (Team A), Komiyama Haruka (Team K), Takahashi Juri (Team B) và Murayama Yuiri (Team 4). Vai trò đồng đội trưởng cũng được loại bỏ[254]. Watanabe Mayu rời nhóm vào cuối năm sau NHK Kouhaku Uta Gassen thứ 68[255]

2018–2019: Tham gia Produce 48, Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake o Shitteiru

[sửa | sửa mã nguồn]
Team 8 biểu diễn tại tỉnh Nagano năm 2016

Nhóm ra mắt album thứ 9 Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake wo Shitteiru vào 24/1/2018[256][257], cùng single thứ 51 Jabaja vào 14/3, Okada Nana có lần đầu tiên làm center cho single[258][259]. Nhóm phát hành single thứ 52 Teacher Teacher vào 30/5[260], bán được 1.591.164 bản trong ngày đầu, phá kỷ lục cũ của Bokutachi wa Tatakawanai, tẩu tán được 1.812.868 bản vài tuần sau đó, là single bán chạy thứ 2 trong lịch sử sau Sayonara Crawl với 1.995.800 bản[261], đồng thời được RIAJ chứng nhận Triple Million, trở thành nhóm nhạc đầu tiên đạt chứng nhận này[262]. Nhóm tổ chức Tổng tuyển cử lần thứ 10 vào 18/6, cùng dịp kỷ niệm 10 năm SKE48 ra mắt, Matsui Jurina chiến thắng với 194.453 phiếu bầu[263], làm center cho single thứ 53 "Sentimental Train" phát hành ngày 19/9, nhưng rút lui vì vấn đề sức khỏe.[264]

Vào ngày 15/6, AKB48 cùng 5 nhóm chị em tại Nhật Bản đưa 39 thành viên tham gia chương trình thực tế sống còn Produce 48 để cạnh tranh với 57 thực tập sinh từ chủ nhà Hàn Quốc cho 12 vị trí của nhóm nhạc sẽ hoạt động tại Hàn Quốc và Nhật Bản trong 2,5 năm[265]. Vào 31/8, tập cuối cùng của show cùng tên nhóm Iz*One và đội hình chính thức đã ra mắt, trong đó Honda Hitomi từ AKB48 cùng Yabuki Nako với Miyawaki Sakura từ HKT48 là 3 thành viên từ Nhật Bản của nhóm[266], do đó cả 3 sẽ tạm dừng mọi hoạt động cùng AKB48 để hoạt động cho Iz*One đến tháng 4/2021[267], single thứ 54 NO WAY MAN là lần cuối cả 3 xuất hiện cùng AKB48[268], cùng bài hát B-side cho top 16 Produce 48 (không bao gồm Nako, Hitomi, Sakura)[269][270] Sau khi kết thúc Produce 48, Stone Music Entertainment cùng Genie Music ký kết hợp đồng với King Records & AKS để phân phối các single của AKB48 tại Hàn Quốc[271]. 6 thành viên Yokoyama Yui, Shimizu Maria, Oda Erina, Hama Sayuna, Shitao Miu và Gyoten Yurina từ Team 8 biểu diễn cùng SGO48 tại giải chạy Kizuna Ekiden 2018 ở Hà Nội ngày 18/11.[272][273]

Tại lễ kỳ niệm 13 năm, Yokoyama Yui thông báo từ chức Tổng quản nhưng sẽ tiếp tục hoạt động cùng nhóm, cô chọn Mukaichi Mion là người kế nhiệm[274], nhóm ra mắt phim tài liệu thứ 6 Legend of AKB48: New Chapter vào dịp Giáng sinh[275]. Vào ngày 31/12, 16 thành viên nhóm biểu diễn bài hát "Koisuru Fortune Cookie" cùng BNK48 trong đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 69 bằng tiếng Nhật & tiếng Thái, Mobile (BNK48) cùng Sashihara Rino là 2 center biểu diễn bài hát.[c][276][277]

Nhà hát AKB48 trong sự kiện AKB48 Stage Fighter Special Theater Performance 2014

Nhóm tham dự sự kiện AKB48 Group Asia Festival in Bangkok tại Bangkok, Thái Lan đầu năm 2019[278], biểu diễn cùng chủ nhà BNK48 và các nhóm chị em JKT48, MNL48, AKB48 Team SH, AKB48 Team TP và SGO48[279], sau đó là AKB48 Group Asia Festival in Shanghai ở Thượng Hải, Trung Quốc vào tháng 8, biểu diễn cùng chủ nhà AKB48 Team SH với các nhóm chị em[280], cùng Tokyo Idol Festival 2019 tổ chức cùng tháng[281] và concert "AKB48 in Taipei ~Are You Ready?~" tại Nhà thi đấu Đài Bắc, Đài Loan với AKB48 Team TP vào tháng 9[282]. AKB48 tổ chức AKB48 Zenkoku Tour 2019 từ tháng 7 đến tháng 12.[283] Nhóm có lần thứ 2 liên tiếp biểu diễn cùng SGO48 tại giải chạy Kizuna Ekiden 2019 ở Hà Nội ngày 16/11[284], lần này 6 thành viên Erina Oda, Yuna Hattori, Maria Shimizu, Haruna Hashimoto, Serika Nagano và Hinako Okuhara biểu diễn cùng Kaycee & Trúc Phạm[285].

Năm 2019 chứng kiên nhiều biến động của nhóm: Sashihara Rino tuyên bố tốt nghiệp[286], làm center cho single thứ 55 Jiwaru DAYS phát hành ngày 13/3[287][288], bao gồm bài hát "Hitsuzensei" thuộc single là sự kết hợp giữa AKB48, Nogizaka46 và Iz*One[289]; Kojima Mako tuyên bố tốt nghiệp[290], cô có buổi biểu diễn tốt nghiệp tại AKB48 Group Spring Festival in Yokohama Stadium[291]; 2 chương trình nổi tiếng của nhóm AKB48 SHOW! và AKBINGO! ngừng phát sóng lần lượt vào tháng 3 & tháng 9[292][293], cuộc tổng tuyển cử, Đại hội Janken và Kōhaku Uta Gassen không được tổ chức[294]; đến cuối năm trong buổi diễn kỷ niệm 14 năm, thành viên còn lại từ thế hệ đầu tiên Minegishi Minami thông báo tốt nghiệp[295], cô sẽ có concert tốt nghiệp tại Yokohama Arena ngày 2/4/2020[296].

Nhóm phát hành single thứ 56 Sustainable vào 18/9[297], là single đầu tiên của nhóm tại Thời kỳ Lệnh Hòa, cũng là single cuối của nhóm trong năm, đánh dấu năm nhóm ra ít single nhất từ khi ra mắt với 2 single[298].Tiệm cafe & cửa hàng AKB48 đặt cạnh nhà hát chính thức đóng cửa từ 29/12 sau 8 năm hoạt động[299] Tại đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 70 tổ chức ngày 31/12, 16 thành viên nhóm biểu diễn bài hát "Koisuru Fortune Cookie" cùng các nhóm chị em thuộc AKB48 Group[d][300][301]

2020: Những sự thay đổi, ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19, dự án OUC48 project

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2020 mở đầu bằng việc AKS quyết định để các công ty quản lý riêng lẻ điều hành độc lập các nhóm chị em của AKB48[302]. Vào 4/2, Yahagi Moeka tốt nghiệp AKB48, theo đó sự kiện bắt tay ở Osaka vào đầu tháng 2 sẽ là hoạt động cuối cùng của nữ ca sĩ với tư cách là thành viên của nhóm.[303] Vào 18/3, nhóm phát hành single thứ 57 "Shitsuren, Arigatō", bán được 1.414.077 bản trong tuần đầu[304], Concert mùa xuân của nhóm bị hủy bỏ do đại dịch COVID-19, kéo theo màn tốt nghiệp của Minegshi Minami đã bị tạm dừng, các buổi biểu diễn tại nhà hát cũng bị hủy bỏ sau đó[305]. Vào ngày 1/4, DH Co., Ltd tiếp quản hoạt động nhóm[306]. Đến ngày 13/6, nhóm mở lại nhà hát với các buổi diễn nhưng không đón khán giả[307].

Để phòng chống đại dịch COVID-19 tại Nhật Bản cùng yêu cầu giãn cách xã hội từ chính phủ, nhóm ra mắt dự án OUC48 project, ra đời từ cụm từ o-uchi (tiếng Nhật: お家, tiếng Việt: ở nhà)[308]. Dự án được hình thành nhằm tuyên truyền, động viên tinh thần mọi người ở nhà để bảo vệ sức khỏe[309]. Trong thời gian dịch bệnh vẫn đang diễn biến phức tạp, các thành viên đã tự quay video biểu diễn tại nhà và sau đó gửi tới Tổng quản Mukaichi Mion để tổng hợp thành video hoàn chỉnh, mở đầu bằng việc 103 thành viên cùng nhau hát bài 365nichi no Kamihikouki, dự án đã nhận được ủng hộ lớn từ công chúng.[310] Sau đó vào ngày 27/5, 5 thành viên Omori Maho, Oguri Yui, Shitao Miu, Chiba Erii, Yamauchi Mizuki biểu diễn cùng các nhóm chị em thuộc AKB48 và các nghệ sỹ khác tại Châu Á trong sự kiện ONE LOVE ASIA[311], nhóm mở lại nhà hát cùng các buổi diễn từ giữa tháng 9[312].

Nhóm phát hành single từ thiện thứ 3 Hanareteitemo vào 21/6[313]. Bài hát ra đời để cổ vũ cho tất cả mọi người tham gia công tác ngăn chặn sự lây lan của virus corona chủng mới, với sự tham gia của 105 thành viên hiện tại của AKB48, 1 thành viên SKE48 và 8 thành viên đã tốt nghiệp bao gồm Maeda Atsuko, Oshima Yuko, Itano Tomomi, Shinoda Mariko, Kojima Haruna, Takahashi Minami, Sashihara Rino và Yamamoto Sayaka, với số tiền thu được sẽ được quyên góp để cứu trợ những thiệt hại từ virus corona[314]. Vào ngày 15/8, nhóm thông báo Oya Shizuka dương tính với Covid-19, trước đó Kayoko Takita là thành viên đầu tiên ghi nhận nhiễm bệnh[315][316], cả 2 đều trở lại hoạt động sau đó[317][318] . Nhóm hoãn buổi biểu diễn đặc biệt kỷ niệm 15 năm hoạt động tại nhà hát[319], trước đó 15 thành viên tiếp xúc với Shiroma Miru, người sau đó dương tính với Covid-19[320], họ nhận kết quả âm tính sau đó & phải tự cách ly tại nhà đến 11/12[321]. Nhóm vắng mặt tại đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 71 vào cuối năm, chấm dứt 11 năm liền xuất hiện tại sự kiện (2009-2019).[322]

2021–nay: Phục hồi sau đại dịch COVID-19, chuyển sang hãng thu âm Universal Music, album thứ 10

[sửa | sửa mã nguồn]

Single thứ 57 "Shitsuren, Arigatō" của nhóm đạt giải Best 5 Singles tại lễ trao giải Japan Gold Disc Awards lần thứ 35[323]. Vào ngày 21/3, nhóm thông báo sẽ tổ chức concert trực tuyến AKB48 Group Asia Festival 2021 ONLINE vào ngày 27/6 tại Tokyo Dome City Hall[324], sau đó nhóm công bố 16 thành viên Chiba Erii, Nishikawa Rei, Kato Rena (Team A), Muto Tomu (Team K), Kubo Satone, Omori Maho, Taniguchi Megu (Team B), Okada Nana, Murayama Yuiri, Yamauchi Mizuki (Team 4), Okabe Rin, Oguri Yui, Gyoten Yurina, Shitao Miu, Kuranoo Narumi, Honda Hitomi (Team 8) tham dự sự kiện [e][325][326][327].Nhóm tổ chức concert tốt nghiệp cho Minegshi Minami vào ngày 22/5[328][329].

Vào ngày 23/5, Team 8 tổ chức concert toàn quốc cuối cùng ~47 no Suteki na Machi e~ tại Kanagawa, đánh dấu sự trở lại của Honda Hitomi sau khi kết thúc hoạt động cho Iz*One[330], sau đó nhóm tổ chức concert AKB48 Tandoku Concert 2021 cùng ngày, trình diễn liên tục 48 bài hát[331], đồng thời nhóm công bố single thứ 58 "Nemohamo Rumor", với chỉ 18 thành viên thuộc AKB48 và không có thành viên của nhóm chị em khác từ lần cuối là "Chance no Junban" vào năm 2010 và ra mắt vào ngày 29/9[332], nhóm thông báo 18 thành viên tham gia vào ngày 7/7[333], biểu diễn bài hát trong chương trình "THE MUSIC DAY 2021" vào ngày 17/7[334][335] & ra mắt MV cho bài hát vào ngày 31/8[336], cùng TV show hợp tác với nhóm Nogizaka46 Nogizaka ni Hikosaremashita ~Gakeppuchi AKB48 no Dai Gyakushu~ sẽ lên sóng vào tháng 7[337], với bộ phim kinh dị Mijyoubutsu Hyakumonogatari ra mắt mùa hè[338], ngoài ra nhóm tổ chức AKB48 THE AUDISHOW từ 10-13/6 tại Tokyo Dome City Hall[339]. Nhóm tham gia TV Tokyo Ongakusai 2021, biểu diễn trên khoang hành khách máy bay A380 của hãng hàng không All Nippon Airways tại Sân bay quốc tế Narita ngày 30/6,[340][f] và NTV THE MUSIC DAY Ongaku wa Tomaramai 2021, biểu diễn cùng Morning Musume ngày 3/7[341][g].

AKB48 vào năm 2023

Vào ngày 31/7, nhóm thông báo phải hủy hết lịch trình hoạt động vào các ngày đầu tháng 8 vì có 7 thành viên Omori Maho, Kuranoo Narumi, Sakaguchi Nagisa, Nagano Serika, Suzuki Yuka, Uemi Sorano và Tokunaga Remi cùng mắc Covid-19[342]. Công ty quản lý đã gửi lời xin lỗi khán giả vì để bệnh dịch lây lan nhanh chóng trong nội bộ nhóm "Các thành viên có nguy cơ lây nhiễm cao vì tiếp xúc với ca dương tính đã tự cách ly và quản lý sức khỏe tại nhà riêng hoặc trong ký túc xá của nhóm".[343][344] Trước đó Gyoten Yurina có kết quả tương tự[345], sau đó nhiều thành viên khác cũng bị lây nhiễm[346], nhưng sau đó 1 số thành viên trở lại hoạt động[347]. Nhóm thông báo sẽ ra mắt game AKB48 WORLD vào tháng 9[348], cùng TV show mới AKB48! Mousou Manga Bu vào giữa tháng 8[349], Nhóm mở lại nhà hát cùng các buổi diễn từ giữa tháng 9[350][351][352], Yokoyama Yui thông báo tốt nghiệp tại MX Natsu Matsuri AKB48 2021 Saigo no Summer Party ngày 12/9, theo đó cô sẽ có buổi diễn tốt nghiệp tại nhà hát ngày 27/11[353][354], cô ra mắt bài hát tốt nghiệp Kimi ga inakunaru 12gatsu nằm trong single thứ 58[355]. Tại buổi kỷ niệm 16 năm ra mắt, nhóm cải tổ đội hình & thông báo đội trưởng mới của Team là Mukaichi Mion (Team A), Taguchi Manaka (Team K), Asai Nanami (Team B) và Kuranoo Narumi (Team 4)[356], đồng thời thông báo tuyển sinh thế hệ thứ 17[357]. Vào ngày 12/12, Miyazaki Miho thông báo tốt nghiệp, sau đó Kato Rena cũng thực hiện điều tương tự[358][359], và chính thức rời nhóm vào năm 2022. Nhóm sẽ vắng mặt tại NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 72 vào cuối năm[360].

Các sự kiện lớn vào mùa xuân năm 2022 của AKB48 bao gồm buổi hòa nhạc cuối cùng của Team hiện tại, Request Hour 30 và buổi hòa nhạc của Team mới sẽ bị hủy bỏ vì Covid-19[361]. 3 thành viên Nagano Megumi, Yamauchi Mizuki, Oda Erina cùng mắc Covid-19[362]. Vào ngày 22/2, nhóm thông báo sẽ ra mắt single thứ 59 Motokare desu vào ngày 18/5, Honda Hitomi sẽ làm center cho bài hát[363]. Nhóm trình diễn bài hát trong chương trình CDTV LIVE! LIVE! cho đài TBS ngày 28/3[364]. Vào ngày 4/5, nhóm ra mắt thế hệ thứ 17 với 11 thành viên[365]. Vào ngày 6/8, nhóm thông báo sẽ ra mắt single thứ 60 Hisashiburi no Lip Gloss vào ngày 19/10[366]. Vào ngày 9/10, trong buổi diễn tại Nippon Budokan, nhóm thông báo tuyển sinh thế hệ thứ 18[367]. Tại buổi kỷ niệm 17 năm ra mắt, nhóm thông báo sẽ tổ chức buổi diễn tại Pia Arena MM vào tháng 4/2023[368]. Đến ngày 27/2/2023, nhóm thông báo sẽ ra mắt single thứ 61 "Doushitemo kimi ga suki da" vào ngày 27/4, Honda Hitomi sẽ làm center cho bài hát[369], single này cũng đánh dấu cột mốc AKB48 chuyển sang hãng thu âm Universal Music.[370] Vào ngày 9/4/2023, nhóm ra mắt thế hệ thứ 18 với 8 thành viên[371]. Vào ngày 29/4/2023, nhóm thông báo sẽ kết thúc hệ thống Team và đội trưởng, với các buổi biểu diễn cuối cùng cho các Team hiện tại sẽ được tổ chức vào tháng 8.[372] Đến ngày 28/7/2023, nhóm thông báo sẽ ra mắt single thứ 62 Idol nanka janakattara vào ngày 27/9, Oguri Yui sẽ làm center cho bài hát,[373] và biểu diễn bài hát lần đầu tại CDTV LIVE! LIVE! Summer Fes. 4.5 Hours Special.[374]

Vào ngày 20/10, Kashiwagi Yuki thông báo tốt nghiệp AKB48 sau 17 năm trong nhóm tại buổi diễn ở Nippon Budokan. Buổi diễn tốt nghiệp sẽ tổ chức vào ngày 16 tháng 3 và sẽ rời nhóm vào giữa tháng 4.[375] Sau đó 2 ngày, nhóm thông báo tuyển sinh thế hệ thứ 19.[376] Vào ngày 8/12, nhân kỷ niệm 18 năm thành lập nhà hát, AKB48 thông báo sẽ phát hành single thứ 63 Colorcon Wink - single tốt nghiệp của Kashiwagi Yuki vào ngày 13/3/2024 và cô sẽ đảm nhận vị trí center cho single.[377][378] Vào ngày 17/3/2024, nhóm ra mắt thế hệ thứ 19 với 5 thành viên.[379]

Vào ngày 2/5/2024, nhóm thông báo sẽ phát hành single thứ 64 Koi Tsunjatta vào ngày 17/7.[380] Vào ngày 26/5, nhóm thông báo sẽ tuyển sinh thế hệ thứ 20.[381] Vào ngày 6/10, AKB48 thông báo sẽ phát hành album thứ 10 vào ngày 25/12/2024. Đây sẽ là lần đầu tiên AKB48 phát hành Cover Album với chủ đề "Idol Time Machine" khi các thành viên sẽ có cơ hội cover các ca khúc Idol nổi tiếng đến từ 3 thời kỳ Showa, HeiseiReiwa.[382]

Phong cách âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách đặc trưng của nhóm được cho là "pop bubblegum và vũ đạo đồng đều", thu hút các cô gái trước tuổi dậy thì cũng như người lớn tuổi ủng hộ các sản phẩm kèm theo của nhóm. Yamaguchi Mari từ Associated Press viết rằng "các buổi biểu diễn dường như có thể được dàn dựng. Khi các cô gái cùng nhau hát và nhảy, người hâm mộ sẽ cùng cổ vũ theo một công thức" và ví phản ứng của họ như khán giả xem Kabuki. 2 nhà báo Andrew Joyce và Kenneth Maxwell từ The Wall Street Journal cho biết phong cách âm nhạc của nhóm là "những giai điệu pop ngọt ngào và những ca từ đôi khi gợi cảm". Trong các buổi biểu diễn của nhóm, "các thành viên biểu diễn một vòng các tiết mục được biên đạo đơn giản trước khoảng 95% khán giả là nam, cùng đặc trưng âm nhạc của nhạc pop Nhật Bản: nhịp độ nhanh với những đoạn điệp khúc cao vút."[383]

Tầm ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
AKB48 biểu diễn Iiwake Maybe tại J!-ENT LIVE

Minewaki Ikuo - CEO của Tower Records Japan cho biết AKB48 là điều rất phổ biến và được coi là hiện tượng xã hội[384][385]. Vào năm 2012, nhóm đạt doanh thu kỷ lục hơn 226 triệu USD tại Nhật Bản[6], đến 2013 tổng doanh thu đạt hơn 128 triệu USD và hơn 96 triệu USD vào 2015[386]. Theo Oricon, tính đến ngày 6 tháng 1 năm 2012, AKB48 đã bán được tổng cộng 11,787 triệu đĩa đơn, lập kỷ lục về "số đĩa đơn bán được nhiều nhất của một nhóm nhạc nữ tại Nhật Bản"[128]. Tính đến tháng 6/2018, nhóm bán được hơn 60 triệu đĩa, bao gồm hơn 6 triệu album[12]. AKB48 là nhóm có doanh thu cao nhất ở Nhật về số lượng đĩa đơn bán ra[14]. Tuy nhiên, single thứ 42 "Kuchibiru ni Be My Baby" đã không bán được hơn 1 triệu bản trong tuần đầu tiên sau khi phát hành, kết thúc chuỗi phát hành đĩa đơn đạt được thành tích này, bắt đầu với "Everyday, Katyusha"[387]. Từ 2010 đến 2019, các đĩa đơn của AKB48 đã chiếm ít nhất 2 vị trí dẫn đầu, và đôi khi là 4 hoặc 5 vị trí dẫn đầu Bảng xếp hạng Đĩa đơn hàng năm của Oricon[388].

Bên cạnh doanh số bán CD, AKB48 cũng đạt được thành công về mặt thương mại trong các lĩnh vực khác: Nhóm có 6 đĩa đơn được RIAJ chứng nhận đạt 1 triệu lượt tải xuống mỗi đĩa[389]. Theo Joysound, AKB48 được vinh danh là nghệ sĩ karaoke của năm trong 4 năm liên tiếp (2011–2014)[390]. Vào năm 2011, 8 vị trí trong top 10 doanh thu sách ảnh hàng năm do các thành viên nhóm chiếm giữ[391]. Năm 2012, 6 thành viên đứng đầu bảng xếp hạng cá nhân của các chiến dịch quảng cáo[392]. AKB48 cũng là một trong những nghệ sĩ Nhật Bản được xem nhiều nhất trên YouTube.

AKB48 nắm giữ một số kỷ lục Guinness thế giới, bao gồm kỷ lục nhóm nhạc nữ lớn nhất thế giới với số lượng thành viên là 48 người vào năm 2010[393]. AKB48 đã lập kỷ lục cho "nhóm nhạc xuất hiện nhiều nhất trong các clip quảng cáo truyền hình khác nhau trong 1 ngày" vào năm 2012, sau khi 90 thành viên trong nhóm xuất hiện trong 90 quảng cáo khác nhau được phát sóng ở các vùng Kanto, Kansai và Tokai của Nhật Bản[394]. Đại sứ Nhật Bản tại Hoa Kỳ Fujisaki Ichiro khi gặp nhóm trong chuyến thăm Washington, D.C. cùng năm cho hay "AKB" nghĩa là "đáng yêu, tốt bụng và xinh đẹp" (Adorable, Kind and Beautiful)[2]

Vào ngày 1 tháng 2 năm 2012, Japan Post phát hành bộ tem bưu chính để vinh danh nhóm.[395]

Sự cố & tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]

Về các bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Akimoto Yasushi là người sáng lập & viết nhạc cho AKB48 và 5 nhóm chị em tại Nhật Bản

Từ khi ra mắt, AKB48 đã nhận nhiều lời chỉ trích vì 1 số bài hát chứa ca từ mang tính gợi dục, mà đa phần khán giả cảm thấy không phù hợp với các thành viên trẻ tuổi trong nhóm[396]. Khi được Anna Coren từ CNN đặt vấn đề, Akimoto Yasushi đã phủ nhận mọi cáo buộc cho rằng ông khai thác yếu tố gợi dục để câu khách[397]. Ông giải thích rằng mình chỉ cố mô tả cuộc sống hiện thực của lứa tuổi vị thành niên, qua phần ca từ và hình ảnh của nhóm nhạc:

"Tôi không ép buộc họ. Tôi chỉ đang khắc họa cuộc sống riêng của họ, một phần dựa vào sự tưởng tượng của tôi, một phần qua các bài báo và tin tức trên truyền hình. Tôi quan sát những gì mà thế hệ của họ đang làm" [398].

Một trong những bài hát gây nhiều tranh cãi là Heavy Rotation. Trong đó, họ mặc đủ loại bikini và váy ngủ gợi cảm, cùng nhau ôm, hôn và tắm chung. Theo báo chí Trung Quốc, tuy được các fan ủng hộ nhưng nhóm bị CNN phê phán vì lối ăn mặc khiêu khích.[399] Ninagawa Mika - đạo diễn bài hát cho biết cô muốn thu hút nam giới và phụ nữ bằng video vui nhộn, sáng tạo vì nhóm ngày càng nổi tiếng. Trong một bài phỏng vấn, cô tiết lộ: "Akimoto giao phó mọi thứ cho tôi mà không đưa ra lời khuyên nào cả... Tôi đã cố gắng thể hiện AKB48 ngoài đời thực trong video. Trong phòng thay đồ, họ dường như rất thân thiết. Sau đó, tôi nghĩ ra ý tưởng về nữ sinh trung học cho bài hát."[400]. Hay hình ảnh AKB48 quay quảng cáo cho Puccho Candy, trong đó các thành viên mặc đồng phục học sinh đút kẹo cho nhau bằng miệng, tạo liên tưởng tới những nụ hôn đồng giới[401]. Nhiều người xem đã giận dữ tuyên bố cách đó không hợp vệ sinh, cổ súy quan hệ đồng giới và nêu gương xấu cho trẻ em.[402]

Về các thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong tháng 1/2013, Kasai Tomomi để ngực trần được che chắn bằng đôi bàn tay của bé trai từ phía sau. Bức ảnh lập tức vấp phải làn sóng chỉ trích mạnh mẽ của người dân nước này. Thậm chí, cô còn dự định dùng hình ảnh này để làm ảnh bìa album cá nhân sắp ra mắt[403]. Không những bị công chúng "ném đá", bức ảnh còn bị cho là đã vi phạm đạo luật về bảo vệ trẻ em. Shukan Young Magazine, tuần san về truyện tranh được xuất bản bởi Kodansha, đã phải trì hoãn việc phát hành ấn phẩm mới nhất (dự tính ra mắt ngày 4/2) do bức ảnh trong ấn phẩm khi tung ra quảng bá làm người dân sốc nặng. Bản thân Kasai Tomomi cũng bị tẩy chay.[404]

Dù cho có quy định các thành viên không được phép hẹn hò và phải giữ được sự thanh khiết, không ảnh hưởng đến hình ảnh đẹp trong lòng người hâm mộ, nhiều cô gái trong hệ thống nhóm nhạc của AKB48 đã vướng phải những vụ ồn ào tình ái và bị công chúng chỉ trích dữ dội[405][406]:

  • Năm 2011, Bunshun Online đưa tin Watanabe Miyuki mời một số khán giả nam đến phòng khách sạn để dự tiệc hẹn hò. Sau sự việc, Watanabe Miyuki bị loại khỏi đội hình trong đợt quảng bá đĩa đơn thứ 2 của NMB48 là Oh my god!.[407]
  • Vào tháng 2/2013, Minegishi Minami đã xin lỗi người hâm mộ khi tờ báo lá cải Shukan Bunshun đăng ảnh cô che mặt, đội nón, rời khỏi nhà bạn trai Shirahama Alan sau khi qua đêm tại đây[22]. Shirahama khi đó 19 tuổi, là vũ công nhóm nhạc nam Exile. Trong clip, cô lộ rõ vẻ mệt mỏi, căng thẳng. Điều khiến người hâm mộ bất ngờ nhất là Minegishi đã cắt cụt mái tóc của mình, cô cho biết đã quyết định cạo mái tóc dài của mình để thể hiện sự ăn năn trước hành động "thiếu suy nghĩ và chưa trưởng thành"[408]. Cô xin lỗi công ty quản lý, thành viên trong nhóm, gia đình và người hâm mộ vì khiến họ lo lắng, đồng thời mong muốn được tiếp tục hoạt động cùng nhóm: "Tâm trí tôi trống rỗng, tôi không biết phải làm gì lúc này. Từ lúc đọc xong bài báo, tôi đứng ngồi không yên. Tôi cạo trọc đầu mà không nói trước với người quản lý hay các bạn trong nhóm... Tôi không nghĩ rằng cạo đầu và thực hiện clip xin lỗi để được dung thứ cho những gì tôi đã làm. Chỉ vì điều đầu tiên tôi nghĩ trong đầu mình lúc này là không muốn rời bỏ AKB48". Ngay sau khi xảy ra sự việc, cô bị đẩy sang làm thực tập sinh. Sự việc này đã thu hút sự chú ý từ truyền thông quốc tế[409].
  • Vào tháng 5/2021, Suzuki Yuka đã xin lỗi người hâm mộ vì sống chung với nhà sản xuất gần 50 tuổi. Cô tuyên bố tạm dừng hoạt động và sẽ kiểm điểm về hành động của bản thân. Đáng nói, chỉ vài ngày trước đó, Bunshun Online chụp được cảnh Suzuki Yuka qua đêm tại khách sạn với một người đàn ông trẻ khác. "Tôi rất xin lỗi vì đã gây rắc rối và lo lắng cho người hâm mộ, các thành viên cũng như những người có liên quan. Tôi xin lỗi từ tận đáy lòng vì hành vi bất cẩn của bản thân. Tôi vô cùng hối hận vì làm những điều không đúng dẫn đến sự xuất hiện của bài báo mà mọi người đã thấy", Suzuki Yuka chia sẻ[410]. Trước đó 1 tháng, Bunshun Online đưa tin cô sống thử với người đàn ông ngoài 40 tuổi, người này đã ở nhà của nữ thần tượng gần một tuần kể từ 1/4 và nắm giữ chìa khóa của căn nhà. Nữ ca sĩ cho biết cô sẽ kiểm điểm và suy nghĩ về hành động của bản thân trong thời gian tạm dừng hoạt động. Suzuki Yuka sẽ không tham gia concert của AKB48 Team 8 tại tỉnh Ibaraki vào ngày 4/5 và tỉnh Kanagawa vào ngày 23/5.[411][412] Cô sau đó thông báo tốt nghiệp ngày 18/9 & có buổi diễn tốt nghiệp tại nhà hát ngày 27/9[413].

Vào tháng 5/2014, trong sự kiện giao lưu với người hâm mộ ở thành phố Takizawa, tỉnh Iwate, 2 thành viên Kawaei RinaIriyama Anna cùng một nhân viên nam khác đã phải nhập viện khẩn cấp sau khi bị Satoru Umeta, người đàn ông 24 tuổi cũng là fan cuồng cầm cưa tấn công[414][415]. Ngay sau đó, hung thủ đã bị cảnh sát bắt giữ để phục vụ điều tra[416][417]. Rina bị thương nặng ở đầu, gãy ngón cái tay phải còn Anna bị đa chấn thương[418]. Quản lý nhóm cho biết Rina và Anna đã được phẫu thuật thành công và có thể xuất viện vào 26/5, đồng thời cho biết không ai bị đe dọa đến tính mạng trong tai nạn này. Dù vậy, buổi diễn ở Tokyo cũng như các buổi giao lưu với người hâm mộ đều bị hủy bỏ[419], còn hung thủ đã bị kết án 6 năm tù[420].

Một bộ phim tài liệu phát sóng trên NHK năm 2016 gây ra các cuộc tranh luận khi cho biết sự phổ biến của các sự kiện bắt tay có thể góp phần làm suy giảm các mối quan hệ trong giới trẻ Nhật Bản, bao gồm các "chàng trai ăn cỏ"[h]. Theo đó, một số người hâm mộ thà dành thời gian ủng hộ thần tượng yêu thích hơn là tích cực theo đuổi tình yêu.[421]

Nhóm nhận nhiều chỉ trích sau vụ việc Yamaguchi Maho bị 2 người đàn ông tấn công và theo đuôi đến tận nhà riêng vào 8/12/2018, tuy nhiên phải đứng ra xin lỗi trước công chúng sau đó, cô cho biết đã trao đổi với quản lý và sẽ tiếp tục hoạt động cho NGT48[422]. Cô cũng thể hiện mong muốn công chúng tiếp tục ủng hộ nhóm[423]. Không chỉ riêng người hâm mộ, tất cả mọi người đều cảm thấy không công bằng cho nạn nhân. Dư luận lên án động thái lạnh lùng và vô trách nhiệm từ AKS[424], Sashihara Rino cùng Suda Akari, Kashiwagi Yuki với nhiều thành viên khác tuyên bố Yamaguchi không nên là người phải xin lỗi[425]. Truyền thông quốc tế cũng bắt đầu đưa tin về vụ việc và bắt đầu xuất hiện hashtag Justice for Maho (Đòi công bằng cho Maho), đồng thời lên án quản lý NGT48 đã không xử lý theo cách mà họ phải làm[426], và đã có 53.000 người ký đơn vào bản kiến nghị yêu cầu quản lý nhóm phải từ chức trước khi nó kết thúc vào ngày 13/1/2019[427]. Quá bất ngờ trước phản ứng dữ dội từ dư luận, AKS phải lên tiếng xin lỗi và sa thải quản lý nhóm NGT48 Etsuro Imamura[428]. Vụ kiện sau đó đã được giải quyết với việc 2 người đàn ông bị phạt với số tiền 2,4 triệu yên trong vòng 5 năm và bị cấm tham gia các sự kiện trong tương lai liên quan đến AKB48 Group[429][430].

Hoạt động từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 1 tháng 4 năm 2011, nhóm phát hành đĩa đơn từ thiện số "Dareka no Tame ni", số tiền thu được dùng cho quyên góp cho cứu trợ động đất và sóng thần[431]. Đĩa đơn thứ 23 "Kaze wa Fuiteiru" được dành tặng cho các nạn nhân thảm họa[432]. Vào tháng 2 năm 2012, AKB48 công bố khoản quyên góp 580 triệu yên khác cho Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản, và có thông tin cho đến nay nhóm đã quyên góp được tổng cộng hơn 1,25 tỷ yên để cứu trợ động đất và sóng thần[433].

Vào ngày 8 tháng 3 năm 2013, nhóm phát hành "Tenohira ga Kataru Koto", một bài hát khác dành riêng cho các nạn nhân thảm họa trên trang web nhóm dưới dạng tải miễn phí.[434] Vào dịp kỷ niệm 2 năm diễn ra thảm họa, AKB48 và các nhóm chị em đến thăm các khu vực bị ảnh hưởng, biểu diễn tại các trường học và các nhà hát AKB48, SKE48, NMB48 và HKT48 với số tiền thu được để hỗ trợ quá trình tái thiết.[435][436]

Quảng bá & truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 cùng các nhóm chị em tăng doanh thu kỷ lục bằng nhiều chiến lược marketing. Các bài hát chính được thực hiện bởi nhóm Senbatsu (選抜?) là tập hợp các thành viên ưu tú được tuyển chọn dựa trên nỗ lực, tài năng và độ nổi tiếng của thành viên đó; những thành viên trong Senbatsu sẽ được góp mặt trong các single của AKB48, tham gia các chiến dịch quảng bá hay xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Điều này tạo sự cạnh tranh giữa các thành viên và nhóm fan. Các single và album được phát hành với nhiều phiên bản với hình ảnh bìa album khác nhau, các bài hát B-side, video DVD, thẻ hình ảnh thành viên và mã bỏ phiếu cho một số cuộc bầu cử hàng năm[437]. Khi mua single/album, fan hâm mộ sẽ được nhận vé tham dự các buổi họp mặt bao gồm sự kiện bắt tay hoặc các buổi chụp ảnh, nơi có thể chọn các thành viên mà họ muốn gặp. Tất cả những chiến lược này thúc đẩy fan hâm mộ mua nhiều số lượng hơn các single/album[438][439]. Alan Swarts của MTV Japan cho hay 1 số fan mua nhiều bản CD đã làm thổi phồng thị trường, và là một trong những lý do khiến ngành công nghiệp âm nhạc Nhật Bản phát triển vượt bậc.[440]

Sự kiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm tổ chức các sự kiện đặc biệt để chọn đội hình quảng bá và thu âm cho một số single. Từ 2009, việc lựa chọn thành viên được chuyển sang hình thức mới dựa vào sự bầu chọn của fan và khái niệm Senbatsu Sousenkyo (tiếng Nhật: AKB48選抜総選挙, chuyển tự AKB48 senbatsu sō senkyo, tiếng Việt: Tổng tuyển cử) ra đời, đây là sự kiện thường niên của AKB48 và các nhóm chị em trong nước[441]. Do lượng thành viên đông đảo, người hâm mộ được chọn ai sẽ góp mặt cũng như là center cho bài hát tiếp theo bằng cách bỏ phiếu khi mua single trước đó, hoặc qua ứng dụng di động hay đăng ký fan club nhóm[442][443], người hâm mộ mua càng nhiều single sẽ có càng nhiều phiếu để bầu cho người mình thích, dẫn đến việc người hâm mộ được cho là đã mua hàng trăm single để bình chọn thành viên yêu thích[444], đồng thời các thành viên muốn tham gia sẽ đăng ký và tiến hành các hoạt động kêu gọi bình chọn. Sousenkyo có 80 hạng, những ai có hạng #80 - #65 được gọi là Upcoming Girls, #64 - #49 là Future Girls, #48 - #33 là Next Girls, #32 - #17 là Undergirls và #16 - #1 là Senbatsu. Những thành viên trong senbatsu sẽ được thể hiện bài hát, góp mặt trong bìa single và MV và được quảng bá rộng rãi, người thắng cuộc sẽ trở thành Center cho bài đó. Từ Undergirls trở xuống vẫn được quay MV, thu âm, tuy nhiên không được quảng bá rộng. Tổng số phiếu bầu được kiểm đã vượt quá 3 triệu phiếu bầu cho các sự kiện từ 2015[445].

AKB48 tổ chức cuộc tổng tuyển cử thứ 7 tại Fukuoka Yafuoku! Dome năm 2015

AKB48 có hoạt động khác để chọn center là Single Senbatsu Janken Taikai, gọi tắt là Janken Taikai (じゃんけん大会 Jan ken taikai?), hay Đại hội Janken/Đại hội oẳn-tù-tì được tổ chức lần đầu vào 2010[446]. Đại hội được tổ chức cho cả các nhóm chị em quốc tế của AKB48 và Kenkyuusei, một yếu tố rất quan trọng có thể giúp bạn thành công đó là may mắn. Vì lẽ đó "Đại hội Oẳn tù tì" ra đời mang đến cơ hội cho mọi người. Các thành viên sẽ mặc bất cứ trang phục họ muốn và tham gia vào trò chơi cặp theo từng bảng và từng vòng cho đến khi tìm ra người thắng cuộc[447]. Đại hội ngoài ra còn là một lễ hội cosplay, khi các thành viên tham gia mặc đồ theo ý thích của mình, trong đấy có rất nhiều bộ trang phục độc đáo. Tuy nhiên, Đại hội không chỉ tuyển chọn center cho single mà tùy từng năm, người thắng cuộc sẽ có những đãi ngộ khác nhau. Cụ thể, tại đại hội năm 2014 và 2015, người chiến thằng được ra mắt với tư cách ca sỹ solo. Đồng thời, các thành viên từ hạng 2 đến 16 sẽ tham gia vào bài hát đính kèm và xuất hiện trong PV bài hát. Mặt khác, tại năm 2016, người thắng cuộc sẽ là center của nhóm nhỏ mới thành lập với các thành viên thắng cuộc trong top 7, các thành viên xếp hạng từ #8 đến #14 sẽ xuất hiện trong bài hát đính kèm và PV[448][449].

AKB48 tổ chức sự kiện bắt tay năm 2013

Nhóm cũng tổ chức concert Request Hour (リクエストアワー rikuesuto awā?), nơi mà fan là người chọn bài hát. Nếu như concert bình thường sẽ do nhân sự chọn bài hát biểu diễn, thì tại Request Hour fan sẽ bầu chọn cho bài hát họ yêu thích, những bài hát trong top sẽ được biểu diễn tại đây[450][451]. Các sự kiện khác nhóm tổ chức là AKB48 Kouhaku Taikou Uta Gassen (AKB48 紅白対抗歌合戦 AKB48 kōhaku taikō utagassen?) là chương trình dựa theo NHK Kōhaku Uta Gassen tổ chức tại Tokyo Dome City Hall, các thành viên được chia thành 2 đội Đỏ (赤組/ 紅組 Akagumi?) và Trắng (白組 shirogumi?) để thi đấu với nhau bằng cách luân phiên biểu diễn các bài hát của AKB48, vào cuối chương trình ban giám khảo và khán giả sẽ bình chọn đội thắng cuộc, tại đây các thành viên thường biểu diễn những bài hát bình thường mình không được diễn, và có cả những phiên bản mới của những bài hát quen thuộc, cùng AKB48 group Draft Kaigi (AKB48グループ ドラフト会議 AKB48 gurūpu dorafuto kaigi?)[452], sự kiện cho những kenkyuusei tiềm năng thực tập và tự quảng bá bản thân để các team chọn qua từng vòng.[453][454][455]

Từ 2019, cuộc tổng tuyển cử, Đại hội Janken và Kōhaku Uta Gassen không được tổ chức[456][457]

Truyền hình, phim ảnh & tạp chí

[sửa | sửa mã nguồn]
Xe quảng bá AKB48 ở Đài Loan.

AKB48 có các chương trình riêng như AKBingo!, AKB48 Show!, AKB to XX, Nemōsu TV... cùng các series phim Majisuka Gakuen[458], Sakura kara no Tegami... Ngoài ra, các thành viên cũng góp mặt trong các chương trình tạp kỹ như Mecha-Mecha Iketeru!, Waratte Iitomo!, SMAPxSMAP... Nhóm là khách mời quen thuộc của đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen tổ chức ngày 31/12 hàng năm với lần đầu ra mắt tại lần thứ 58 (2007)[57], sau đó là chuỗi 11 năm liền xuất hiện tại sự kiện (2009-2019). Nhóm cũng tham gia làm người mẫu cho các tạp chí nổi tiếng[459]. Nhóm ra mắt tạp chí "Forty-Eight Times" từ tháng 6/2020[460].

Nhóm phát hành 6 phim tài liệu từ khi ra mắt, phim đầu tiên DOCUMENTARY of AKB48 to be continued "10 Nengo, Shoujo Tachi wa Ima no Jibun ni Nani o Omou Nodarou?" ra mắt năm 2011[461], phát hành dưới dạng DVD tại Bắc Mỹ tháng 12 cùng năm[462], phim thứ 2 DOCUMENTARY of AKB48 Show must go on Shoujo-tachi wa Kizutsuki Nagara, Yume wo Miru ra mắt năm 2012[463], đạt doanh thu 3.984.152 USD tại Nhật Bản[464], phim thứ 3 DOCUMENTARY of AKB48 No flower without rain Shoujo Tachi wa Namida no Ato ni Nani wo Miru? ra mắt năm 2013[163], đạt doanh thu 2.269.118 USD[465], phim thứ 4 DOCUMENTARY of AKB48 The Time Has Come phát hành năm 2014[191], đạt doanh thu 984.757 USD tính đến tháng 7 cùng năm[466], phim thứ 5 DOCUMENTARY of AKB48 Sonzai suru Riyuu ra mắt năm 2016[467], Legend of AKB48: New Chapter là phim thứ 6 phát hành năm 2018[468]. Mỗi bộ phim ghi lại các sự kiện nhóm trải qua.

Từ 2016, nhóm hợp tác với trang web và ứng dụng di động Showroom để phát sóng các nội dung trực tuyến do các thành viên thực hiện.[469][470] AKB48 tham gia nền tảng Weverse từ ngày 27 tháng 4 năm 2023, dịch vụ Weverse DM của nhóm sẽ bắt đầu vào ngày 2 tháng 5 năm 2023 và 16 thành viên từ đĩa đơn thứ 61 sẽ tham gia đầu tiên.[471]

Manga & anime

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt bộ manga AKB49: Ren'ai Kinshi Jōrei kể về AKB48 với các thành viên trong nhóm làm nhân vật phụ[472], cùng với bộ trinh thám AKB48 Satsujin Jiken[473]. Bộ anime AKB0048 là loạt phim khoa học viễn tưởng, với sự giám sát sản xuất của Akimoto Yasushi, 9 nhân vật trong anime được lồng tiếng bởi các thành viên AKB48 và các nhóm chị em. Phần 1 phát sóng vào mùa xuân 2012[474], phần 2 phát sóng sau đó 1 năm.[475]

Nhóm xuất hiện trong các game mô phỏng hẹn hò như AKB1/48: Idol to Koishitara... (2010), AKB1/48: Idol to Guam de Koishitara... (2011, lấy bối cảnh tại Guam), AKB1/149 Ren'ai Sōsenkyo (2012) có sự góp mặt của SKE48, HKT48 và NMB48, cả 3 game đều phát hành cho PlayStation Portable, PS VitaPS3. Năm 2013, Bandai Namco ra mắt game Sailor Zombie AKB48 Arcade Edition dựa theo phim cùng tên[476]. AKB48 Official Music Game ra mắt 2014 là game âm nhạc đầu tiên của nhóm phát hành trên IOS & Android[477]. Năm 2012, AKB48 + Me phát hành cho Nintendo 3DS, cho phép người chơi trở thành thành viên của AKB48[478] Một quảng cáo của Super Smash Bros. for Nintendo 3DS and Wii U cũng có sự xuất hiện của hình đại diện Miis cho nhóm, với sự tham gia của Kashiwagi Yuki và các thành viên cũ Watanabe Mayu và Takahashi Minami[479].... cùng nhiều trò chơi khác

Năm Tên Nền tảng Ghi chú
2010 Taiko no Tatsujin DS: Dororon! Youkai Dai Kessen! Nintendo DS Bài hát RIVER từ AKB48 được dùng trong game
AKB 1/48 Idol to Koi Shitara... (AKB1/48 アイドルと恋したら...) PSP Game hẹn hò giả tưởng
2011 AKB 1/48 Idol to Guam de Koi Shitara... (AKB1/48 アイドルとグアムで恋したら...?) Game hẹn hò giả tưởng lấy bối cảnh tại đảo Guam.
AKB48 Stage Fighter Điện thoại Bao gồm các thành viên từ AKB48, SKE48 và NMB48
2012 AKB48 Trading Card Game & Collection Game Thực tế ảo
AKB48+Me Nintendo 3DS Game nhập vai
AKB1/149 Renai Sousenkyo (AKB1/149恋愛総選挙?) PSP, PS Vita và PS3 Game hẹn hò giả tưởng, bao gồm các thành viên từ AKB48, SKE48, HKT48 và NMB48
2013 AKB48 no Yabou Điện thoại, Máy tính Game nhập vai
Sailor Zombie AKB48 Arcade Edition Máy Arcade Iriyama Anna, Kawaei Rina, Watanabe Mayu (Team A), Oshima Yuko (Team K), Kashiwagi Yuki, Nishino Miki (Team B), Kojima Mako (Team 4)
2014 AKB48 Official Music Game Điện thoại Bao gồm các thành viên từ AKB48, SKE48, HKT48 và NMB48, đóng cửa ngày 26/3/2018
JUST DANCE Wii U Wii U 2 bài hát Koi Suru Fortune Cookie & Flying Get, cùng 2 bài hát Kiss Datte Hidarikiki & Sansei Kawaii! từ SKE48 được dùng trong game
Super Smash Bros. for Nintendo 3DS and Wii U Nintendo 3DS, Wii U Game đối kháng
2017 AiKaBu Điện thoại
AKB48 Stage Fighter 2 Battle Festival Bao gồm các thành viên từ AKB48 cùng 5 nhóm chị em
2018 AKB48 Dice Caravan Game nhập vai
Arcana no Himitsu
AKB48 Beat Carnival Bao gồm các thành viên từ AKB48 cùng 5 nhóm chị em
2019 AKB48 Cherry Bay Blaze Cùng Mao Duy Gia, Lưu Niệm, Chu Linh (AKB48 Team SH), đóng cửa tháng 1/2021
2020 AKB48 no Dobboun! Hitori Jime
2021 AKB48 World Game nhập vai
2022

Quảng cáo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cokyo Koukoku Kikyo (公共広告機構) / Mittsu no R de Chikyu wo Sukue! REDUCE RESUME RECYCLE (3つのRで地球を救え! REDUCE REUSE RECYCLE)
  • Recrute (リクルート) / Hana Saku・Project (ハナサク・プロジェクト)
  • Tokyo City「TOKYO exercises」
  • Yomiuri Newspaper 『読売新聞×AKB48』[480]
  • Recochoku 「レコチョクの部屋 AKB編」
  • AOKI『AOKI×AKB48』
  • AKB48 × Nadeshiko Japan
  • AKB48 x nano・universe
  • AKB48 x Credit Saison[481]
  • AKB48 × Yahoo!
  • AKB48 × McDonald's Japan[482]
  • AKB48 × 兵衛向陽閣 (Hyoe Koyokaku)[483]
  • AKB48 × Hewlett-Packard
  • AKB48 × Kaspersky
  • Japanese Red Cross Society x AKB48[484]
  • AKB48 × Adidas[485]
  • Vanilla Air x AKB48 Team 8[486]
  • IxR x TapiocaDrink[487]
  • AKBBeauty For MEN[488]
  • AKB48 × New Balance[489]
  • AKB48 × RAVIJOUR[490]
  • AKB48 × Welcia[491]

Chương trình radio

[sửa | sửa mã nguồn]
  • [bayfm] ON8
  • [CBC Radio] AKB48 Konya wa Kaeranai... (AKB48 今夜は帰らない...)
  • [Star Radio] AKB48 no Zenryoku de Kikanakya Dame Jyan!! (AKB48の全力で聴かなきゃダメじゃん!!)
  • [Bunka Hoso] AKB48 Asu Made Mou Chotto. (AKB48 明日までもうちょっと。)
  • [Bunka Hoso] Sakurazuka Yakkun no Sukeban Rengo Kinkyu Shukai (桜塚やっくんのスケバン連合緊急集会)
  • [TOKYO FM] COUNTDOWN JAPAN
  • [TOKYO FM] AKB48 no Yonpachi After (AKB48のよんぱちアフター)
  • AKB48 no All Night Nippon

Dự án từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Dareka no Tame ni (2011)
  • Hanaereteitemo (2020)

Nhạc kịch

[sửa | sửa mã nguồn]
  • DUMP SHOW![492]
  • AKB48 Kagekidan "∞・Infinity"[493]
  • AKB49 ~Renai Kinshi Jourei~ The Musical[494]
  • Majimuri Gakuen Loudness (舞台「マジムリ学園-LOUDNESS-」[495]
  • THE SHOW TIME[496]
  • Iwa Kakeru! Sport Climbing Girls[497]
  • Neon Kids[498]
Toàn cảnh bên ngoài cùng bên trong nhà hát AKB48

Nhóm có nhà hát riêng đặt trên tầng 8 tòa nhà Don Quijote ở Akihabara- Tokyo, nơi nhóm biểu diễn trong tuần và có nhiều suất diễn vào thứ 7 và chủ nhật, được mở ngày 8/12/2005 ー cũng là ngày ra mắt nhóm. Team A công diễn stage đầu tiên của mình - stage đầu tiên trong lịch sử nhà 48 "PARTY ga Hajimaruyo". Các thế hệ sau này đều lấy sân khấu nhà hát làm trọng tâm, và đa số sau mỗi đợt tuyển chọn thế hệ, các thành viên mới thường ra mắt người hâm mộ lần đầu tại nhà hát, có thể chỉ là những lời giới thiệu bản thân, trình diễn một bài hát đã được tập luyện, hoặc nhảy nền cho một số unit trong Stage đó. Nhà hát nổi tiếng có 2 cột trụ ngay trước sân khấu, trên đó có những dải băng màu hồng. Những sọc sơn này thể hiện số năm nhóm biểu diễn tại nhà hát.

Theo thông lệ, thành viên sẽ tháo bỏ ảnh chân dung ở hội trường nhà hát khi chính thức tốt nghiệp. Nhà hát có 145 ghế ngồi, còn lại là chỗ đứng, tổng cộng sẽ có 250 khán giả mỗi buổi diễn; mặc dù AKB48 biểu diễn tại nhà hát hàng ngày, nhưng vé chỉ được phân phối thông qua hình thức xổ số do nhu cầu cao. Tiệm cafe mở năm 2011 đặt cạnh nhà hát là nơi fan dùng đồ ăn uống & món tráng miệng theo thực đơn. Ngoài ra còn cửa hàng lưu niệm, đồng thời ở đây cũng tổ chức nhiều sự kiện gặp gỡ các thành viên trong nhóm, cả 2 đóng cửa từ cuối 2019 sau 8 năm hoạt động[499]. Hàng năm nhóm sẽ tổ chức lễ kỷ niệm ra mắt tại đây từ 2010[500]. Nhà hát có thời gian tạm dừng hoạt động vì nhiều nguyên nhân, gần đây là do ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19[104][501][502].

Vào tháng 5/2014, 2 thành viên Kawaei Rina và Iriyama Anna đã phải nhập viện khẩn cấp sau khi 1 fan cuồng cầm cưa tấn công trong sự kiện bắt tay[503]. Nhóm đóng cửa nhà hát trong 1 tuần và hủy bỏ tất cả các buổi diễn cùng sự kiện bắt tay và chụp ảnh với người hâm mộ vào tháng 5 & tháng 6[504][505][506]. Khi nhà hát mở lại, AKB48 thực hiện một số thay đổi với hệ thống an ninh: máy dò kim loại được thiết lập ở lối vào, số lượng nhân viên an ninh cũng tăng lên, cụ thể trong buổi diễn mở màn đã có 6 cảnh sát túc trực trong nhà hát. Một hàng rào được thiết lập giữa khán giả và sân khấu, các hàng ghế đầu được hạn chế sử dụng, điều này cũng áp dụng với SKE48, NMB48 và HKT48 dù cả 3 không tạm dừng các buổi biểu diễn tại nhà hát[507]. Đây là sự thay đổi mạnh mẽ đối với AKB48 vì nhóm luôn nhấn mạnh vào việc tiếp cận với người hâm mộ[508].Trong buổi diễn đầu tiên từ sau vụ tấn công, các thành viên đã không tiễn người hâm mộ bằng những cú đập tay như thường lệ & vẫn chưa rõ liệu nghi thức có trở lại hay không. Hơn nữa, khán giả không thể xem buổi diễn trên màn hình tại sảnh nhà hát. Chỉ những người có vé xem buổi diễn cụ thể hoặc những người trong danh sách chờ hủy mới được phép vào rạp. Nhà hát từng tổ chức các buổi biểu diễn của SDN48 cho đến khi tan rã.

Quản lý nhà hát hiện tại là Yuasa Hiroshi, và Kayano Shinobu là Tổng quản lý nhà hát của các nhóm thuộc AKB48 Group tại Nhật Bản.[509]

Vào ngày 17 tháng 3 năm 2024, AKB48 thông báo sau 19 năm hoạt động, nhà hát sẽ tiến hành cải tạo từ tháng 9, với buổi biểu diễn cuối cùng tại nhà hát hiện tại sẽ được tổ chức vào ngày 1 tháng 9. Việc cải tạo dự kiến ​​sẽ hoàn thành trước ngày 7 tháng 12, một ngày trước lễ kỷ niệm 19 năm hoạt động của nhóm.[510]

Các buổi diễn tại nhà hát (Stage)

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Thời gian
Team A
1st Stage 「PARTYが始まるよ」 (AKB48 Team A 1st Stage "PARTY ga Hajimaru yo") 8/12/2005-31/3/2006
2nd Stage 「会いたかった」 (AKB48 Team A 2nd Stage "Aitakatta") 15/4-11/8/2006
3rd Stage 「誰かのために」 (AKB48 Team A 3rd Stage "Dareka no Tame ni") 20/8/2006-15/1/2007
4th Stage 「ただいま 恋愛中」 (AKB48 Team A 4th Stage "Tadaima Renaichuu")  25/2-26/6/2007
5th Stage 「恋愛禁止条例」 (AKB48 Team A 5th Stage "Renai Kinshi Jourei") 19/10/2008-27/5/2010
6th Stage 「目撃者」 (AKB48 Team A 6th Stage "Mokugekisha")
  • 19/10/2008-29/10/2012
  • 12/6/2018-nay
Waiting Stage 2/11/2012-21/4/2014
7th Stage 「M.Tに捧ぐ」 10/2/2016-16/5/2018
Juuryoku Sympathy 11/5/2022
Team K
1st Stage 「PARTYが始まるよ」 (AKB48 Team K 1st Stage "PARTY ga Hajimaru yo") 1/4-5/7/2006
2nd Stage 「青春ガールズ」 (AKB48 Team K 2nd Stage "Seishun Girls") 8/7-6/11/2006
3rd Stage 「脳内パラダイス」 (AKB48 Team K 3rd Stage "Nounai Paradise") 17/12/2006- 22/6/2007
4th Stage 「最終ベルが鳴る」 (AKB48 Team K 4th Stage "Saishuu Bell ga Naru") 31/5/2008-4/4/2009
5th Stage 「逆上がり」 (AKB48 Team K 5th Stage "Saka Agari") 11/4/2009-21/2/2010
6th Stage 「RESET」 (AKB48 Team K 6th☢ Stage "RESET") 
  • 12/3/2010-24/10/2012
  • 7/5/2014-26/8/2015
  • 6/7/2018-nay
Waiting Stage 1/11/2012-12/2/2014
K Shousuru Monotachi (K承する者たち) 26/8-24/10/2020
Saka Agari 25/4/2022
Team B
1st Stage 「青春ガールズ」 (AKB48 Team B 1st Stage "Seishun Girls")  8/4-2/10/2007
2nd Stage 「会いたかった」 (AKB48 Team B 2nd Stage "Aitakatta") 7/10/2007-21/2/2008
3rd Stage 「パジャマドライブ」 (AKB48 Team B 3rd Stage "Pajama Drive")
  • 31/3/2008-1/2/2009
  • 28/4/2014-27/8/2015
4th Stage 「アイドルの夜明け」 (AKB48 Team B 4th Stage "Idol no Yoake")  8/2/2009-16/4/2010
5th Stage 「シアターの女神] (AKB48 Team B 5th Stage "Theater no Megami") 
  • 3/11/2012-23/4/2014
  • 8/9/2018-nay
Waiting Stage 3/11/2012-23/4/2014
6th Stage 「ただいま 恋愛中」 (AKB48 Team B 6th Stage "Tadaima Renaichuu") 26/12/2015-28/5/2018
Idol No Yoake 29/4/2022
Team 4
1st Stage 「僕の太陽」 (AKB48 Team 4 1st Stage "Boku no Taiyou") 10/10/2011-25/10/2012
2nd Stage 「手をつなぎながら」 (AKB48 Team 4 2nd Stage "Te wo Tsunaginagara")
  • 3/11/2013-15/4/2014
  • 6/6/2018-nay
3rd Stage 「アイドルの夜明け」 (AKB48 Team 4 3rd Stage "Idol no Yoake")  24/4/2014-24/8/2015
4th Stage 「夢を死なせるわけにいかない」 (AKB48 Team 4 4th Stage "Yume wo Shinaseru Wake ni Ikanai")  3/12/2015-18/5/2018
Thumbnail 19/4/2022
Team 8
1st Stage 「PARTYが始まるよ」 (AKB48 Team 8 1st Stage "PARTY ga Hajimaru yo")
  • 8/5/2014-16/8/2015
  • 17/2/2018-nay
2nd Stage 「会いたかった」 (AKB48 Team 8 2nd Stage "Aitakatta") 
  • 9/5/2015-20/8/2017
  • 12/2/2018-nay
Kimi mo 8 (Eito) de Nakou janai ka (君も8(エイト)で泣こうじゃないか) 9/2/2017-8/1/2018
Sono Shizuku wa, Mirai e to Tsunagaru Niji ni Naru. (その雫は、未来へと繋がる虹になる。) 22/11/2018-nay
Himawarigumi
1st Stage 「僕の太陽」 (AKB48 Himawarigumi 1st Stage "Boku no Taiyou") 
  • 1/7-30/11/2007
  • 16/7/2016-28/6/2017
2nd Stage 「夢を死なせるわけにいかない」 (AKB48 Himawarigumi 2nd Stage "Yume wo Shinaseru Wake ni Ikanai")
  • 8/12/2007-19/4/2008
  • tháng 6/2009
Thực tập sinh
1st Stage] 「ただいま恋愛中」 (AKB48 Kenkyuusei "Tadaima Renaichuu")  22/5-7/10/2008
2nd Stage 「アイドルの夜明け」 (AKB48 Kenkyuusei "Idol no Yoake") 6/3/2009-14/2/2010
3rd Stage 「恋愛禁止条例」 (AKB48 Kenkyuusei "Renai Kinshi Jourei") 14/7-16/8/2010
4th Stage 「シアターの女神」 (AKB48 Kenkyuusei "Theater no Megami") 20/6/2010-3/4/2011
5th Stage 「RESET」 (AKB48 Kenkyuusei "RESET") 29/3-8/9/2012
6th Stage 「僕の太陽」 (AKB48 Kenkyuusei "Boku no Taiyou")  26/10/2012-17/3/2013
7th Stage 「パジャマドライブ」 (AKB48 Kenkyuusei "Pajama Drive")
  • 20/3-17/10/2013
  • 18/11/2018-nay
16th Generation Kenkyuusei (16期研究生) 11/2-22/7/2017
Let's Go Kenkyuusei! (レッツゴー研究生!公演) 28/7/2017-7/7/2018
Tadaima Renaichuu[511] 16/8/2022
Soko ni Mirai wa Aru[512] 4/2/2024
Stage Đặc biệt
1st Stage 「イブはアダムの肋骨」 (AKB48 Special Stage "Eve wa Adam no Abarabone") 13/9/2015-7/3/2017
2nd Stage 「青春はまだ終わらない」 (AKB48 Special Stage "Seishun wa mada owaranai") 18/9/2015-17/3/2017
3rd Stage 「どうなる?!どうする?!AKB48」 (AKB48 Special Stage "Dounaru?! Dousuru?! AKB48")  16/10/2015-5/3/2017
4th Stage 「僕がここにいる理由」 (AKB48 Special Stage "Boku ga Koko ni Iru Riyuu")  8/11/2015-27/12/2016
Koukando Bakuage (好感度爆上げ) 21/11/2016-13/4/2017
Minerva yo, Kaze wo Okose (ミネルヴァよ、風を起こせ) 28/2/2017-20/12/2018
Thumbnail (サムネイル) 12/5/2017-nay
Kamikyoku Shibari (神曲縛り) 20/7/2017-25/12/2018
Sekai wa Yume ni Michite Iru (世界は夢に満ちている) 16/8/2017-18/12/2018
Yabai yo! Tsuite koren no ka?! (ヤバイよ!ついて来れんのか?!) 17/4/2017-nay
Idol Shuugyouchuu♡ (アイドル修業中♡) 28/2-17/11/2018
Boku no Natsu ga Hajimaru (僕の夏が始まる) 30/6/2019-nay
Kyo wa dare ni koi o suru? (今日は誰に恋をする?)[513] 29/2/2024
Takahashi Minami sản xuất
Năm Thời gian Tên
2016 16/2 Staff Stage 「STAFF公演」
17/2 Okurairi Stage 「お蔵入り公演」
18/2 Ichigochanzu Stage 「いちごちゃんず公演」
20/2 Dance Senbatsu Stage 「ダンス選抜公演」
22/2 The Idol Stage 「ザ・アイドル公演」
25/2 Chaos Stage 「カオス公演」
27/2 Saturday Night Stage 「SaturdayNight公演」
28/2 Itoshi no Nyan Nyan Otanjoubi Omedetou Stage 「愛しのにゃんにゃんお誕生日おめでとう公演」
Muriyami Yuiri sản xuất
Năm Thời gian Tên
2024 29/2 Kyo wa dare ni koi o suru? (今日は誰に恋をする?)[513]
Buổi diễn giãn cách xã hội
Năm Thời gian Tên
2020
  • 13/6
  • 19/7
NaaOn Social Distance Stage (なぁおん ソーシャルディスタンス公演)
14/6 YuiZuki Social Distance Stage (ゆいずき ソーシャルディスタンス公演)
20/6 YuiMyao Social Distance Stage (ゆいみゃお ソーシャルディスタンス公演)
  • 21/6
  • 31/8
MiiYuki Social Distance Stage (みぃゆき ソーシャルディスタンス公演)
  • 27/6
  • 11/8
  • 30/11
  • 27/12
KitaYamaSakiRingo Social Distance Stage (北山さきりんご ソーシャルディスタンス公演)
4/7 SatoReiMaho Social Distance Stage (さとれいまほ ソーシャルディスタンス公演)
  • 5/7
  • 23/8
Manaamin Social Distance Stage (まなーみん ソーシャルディスタンス公演)
  • 11/7
  • 20/8
KuranoOdaEriNarumi Social Distance Stage (くらのおだえりなるみ ソーシャルディスタンス公演)
  • 25/7
  • 13/8
IxR ni Aeru ☆ (IxRに会える☆)
  • 9-10/8
  • 15-16/8
Boku no Natsu ga Hajimaru (僕の夏が始まる 公演)
  • 26/8
  • 12/10
  • 24/10
K Shousuru Monotachi (K承する者たち)
12/9 NagiMiu Social Distance Stage (なぎみう ソーシャルディスタンス公演)
  • 26/9
  • 11/10
RenaKuru Social Distance Stage (れなくる ソーシャルディスタンス公演)
  • 5/10
  • 15/12
TomuSaho Social Distance Stage (とむさほ ソーシャルディスタンス公演)

Các sự kiện tại nhà hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thời gian Tên
2014 30/11 Stage Fighter Selection Special Stage 2014
2015 12/12 Stage Fighter Selection Special Stage 2015
2016 1/4 Team K 2nd Generation 10th Anniversary Celebration Special Stage
3/12 Stage Fighter Selection Special Stage 2016
2017 26/3 14th Generation Stage
8/4 Team B 3rd Generation 10th Anniversary Celebration Special Stage
26/5 4th Generation 10th Anniversary​ Stage
2/12 Stage Fighter Selection Special Stage 2017
2021 21/12 13th Generation 10th Anniversary Special LIVE[514]

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm nhỏ

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhóm nhỏ cho đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Senbatsu (選抜)
  • Undergirls(アンダーガールズ)
  • Next Girls (ネクストガールズ)
  • Future Girls (フューチャーガールズ)
  • Upcoming Girls (アップカミングガールズ)
  • Waiting Girls (ウェイティングガールズ)
  • Theater Girls (シアターガールズ)
  • Team PB (チーム PB): hợp tác giữa AKB48, Shueisha và Playboy
  • Team YJ (チーム YJ): hợp tác giữa AKB48, Shueisha và Young Jump
  • Yasai Sisters (野菜 シスターズ): hợp tác giữa AKB48 và Công ty Kagome
  • MINT: sub-unit được lập khi phát hành đĩa đơn thứ 18.
  • Selection 6/10/12/16 (セレクション 6/10/12/16)
  • Special Girls (スペシャルガールズ)
  • Google+ Senbatsu
  • Stage Fighter Senbatsu
  • Vocal Team (ボーカルチーム)
  • AKB48 Group U-17 Senbatsu (AKB48 U-17選抜)
  • Vocal Senbatsu (ボーカル選抜)
  • Waiting Circle (ウェイティングサークル)
  • Tofu Pro Wrestling (豆腐プロレス楽曲)
  • Renacchis (レナッチーズ)
  • Dance Senbatsu (ダンス選抜)
  • Team 8 EAST (チーム8 EAST)
  • Team 8 WEST (チーム8 WEST)
  • AKB48 U-17 Senbatsu (AKB48 U-17選抜)
  • OKL48
  • BKA48
  • Tentoumu Chu! (てんとうむChu!)
  • Smiling Lions
  • Beauty Giraffes
  • 7byou-go, Kimi ga Suki ni naru. (7秒後、君が好きになる。)
  • AKB48 U-19 Senbatsu (AKB48 U-19選抜)
  • Baby Elephants
  • Talking Chimpanzees
  • Baragumi (ばら組)
  • Yurigumi (ゆり組)
  • Katareagumi (カトレア組)
  • MayuYukirin (まゆゆきりん)
  • SHOWROOM Senbatsu (SHOWROOM選抜)
  • AKB48 Wakate Senbatsu (AKB48若手選抜)
  • Macharin and Friends. (まちゃりんと仲間たち。)
  • Kojizaka46 (こじ坂46): hợp tác giữa AKB48 và Nogizaka46
  • Team Surprise (チームサプライズ)
  • Sashining Musume.(サシニング娘。)
  • Kabutomu Chu! (かぶとむChu!)
  • Dendenmu Chu! (でんでんむChu!)
  • WONDA Senbatsu (WONDA選抜)
  • Gensou & Jikisou (ゲンソー&ジキソー)
  • Asa ga Kita Senbatsu (あさが来た選抜)
  • 1st Campus
  • Next Generation Senbatsu (次世代選抜)
  • Renacchi Sousenkyo Senbatsu (れなっち総選挙選抜)
  • Mushi Kago (虫かご)
  • Sakamichi AKB (坂道AKB): hợp tác giữa AKB48 và Sakamichi Series
  • Nogizaka AKB (乃木坂AKB): hợp tác giữa AKB48 và Nogizaka46
  • IZ4648: hợp tác giữa AKB48, Nogizaka46 và Iz*One
  • 48 Group NEXT12 (48グループNEXT12)
  • Sucheese (すちーず)
  • Soukantoku to Captains (総監督とキャプテンズ)

Các nhóm nhỏ biểu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
No3b (ノース リーブス)/No Sleeves (ノースリーブス) (Đã giải tán, mọi thành viên đều tốt nghiệp)
  • Kojima Haruna (Team A)
  • Takahashi Minami (Tổng quản của 48 Group)
  • Minegishi Minami (Team K - Captain)

Watarirouka Hashiritai (渡り廊下 走り 隊)/ Watarirouka Hashiritai 7 (渡り廊下 走り 隊 7) (Đã giải tán, mọi thành viên đều tốt nghiệp)

  • Oota Aika (HKT48 Team KIV)
  • Nakagawa Haruka (JKT48 - Team J / Team Kaigai)
  • Watanabe Mayu (team B)
  • Kikuchi Ayaka
  • Iwasa Misaki (Team B)
  • Komori Mika

French Kiss (フレンチ キス) (Đã giải tán)

  • Kashiwagi Yuki (Team B / NGT48)
  • Takajo Aki (Team K) (đã tốt nghiệp)
  • Kuramochi Asuka (đã tốt nghiệp)

Not yet (ノット・イェット) (Đã giải tán, mọi thành viên đều tốt nghiệp)

  • Oshima Yuko
  • Kitahara Rie (NGT48)
  • Sashihara Rino (HKT48 -Team H)
  • Yokoyama Yui (Tổng quản 48 Group/Team A)

Honey Harmony (ハニーハーモニー)

  • Inagaki Kaori
  • Iwatate Saho
  • Shimizu Maria
  • Nagatomo Ayami
  • Fukuoka Seina

IxR

  • Omori Maho
  • Oguri Yui
  • Kubo Satone
  • Nishikawa Rei
  • Yamauchi Mizuki

HUETONE

  • Kawahara Misaki
  • Suzuki Kurumi
  • Taguchi Manaka
  • Hattori Yuna
  • Fujizono Rei
  • Hasegawa Momoka (đã tốt nghiệp)
  • Maeda Ayaka (đã tốt nghiệp)
DiVA (Đã giải tán, mọi thành viên đều tốt nghiệp)
  • Akimoto Sayaka (team K)
  • Umeda Ayaka (NMB48 Team BII)
  • Masuda Yuka (team K)
  • Miyazawa Sae (SNH48 - Team SII / SKE48 - Team S)

Chocolove from AKB (Đã giải tán, mọi thành viên đều tốt nghiệp)

  • Nakanishi Rina (team A)
  • Akimoto Sayaka (team K)
  • Miyazawa Sae (SNH48 - Team SII / SKE48 - Team S)

TinTlip

  • Asai Nanami
  • Sato Minami
  • Shitao Miu
  • Suzuki Yuka
  • Chiba Erii
  • Nagano Serika
  • Yamamoto Ruka (đã tốt nghiệp)

Melisma

  • Utada Hatsuka
  • Otake Hitomi
  • Oda Erina
  • Kitazawa Saki
  • Takahashi Sayaka
  • Yokoyama Yui (đã tốt nghiệp)
  • Rissen Airi (đã tốt nghiệp)
  • Minegishi Minami (đã tốt nghiệp)

SENSUALITY (センシュアリティ)

  • Hidaritomo Ayaka
  • Kato Rena
  • Komiyama Haruka
  • Miyazaki Miho
  • Mogi Shinobu
  • Shinozaki Ayana

Surreal[515]

  • Shitao Miu
  • Chiba Erii
  • Surry (thành viên ảo)
  • Kuranoo Narumi
  • Yamauchi Mizuki
  • Oguri Yui
Jankenmin
  • Tanabe Miku (team B) (đã tốt nghiệp)
  • Yumoto Ami (team K)
  • Komiyama Haruka (team 4)
  • Takeuchi Saki (SKE48) (đã tốt nghiệp)
  • Fukuoka Seina (team B)
  • Nozawa Rena (team 4) (đã tốt nghiệp)
  • Shibuya Nagisa (NMB48)

Nona Diamonds

  • Akiyoshi Yuka (HKT48)
  • Ikeda Yura (STU48)
  • Okada Nana (AKB48/STU48)
  • Nojima Kano (SKE48) (đã tốt nghiệp)
  • Furuhata Nao (SKE48)
  • Mimura Hino (NGT48)
  • Yano Honoka (STU48)
  • Yamauchi Suzuran (SKE48) (đã tốt nghiệp)
  • Yamasaki Amiru (NMB48)

Lacet (ラセ)

  • Gyoten Yurina
  • Mukaichi Mion
  • Saito Haruna
  • Takahashi Ayane
  • Takaoka Kaoru
  • Yoshihashi Yuzuka

GRATS (グラッツ)

  • Kashiwagi Yuki
  • Ma Chia-Ling
  • Muto Tomu
  • Omori Miyuu
  • Sasaki Yukari
  • Yoshikawa Nanase

NO NAME (Đã giải tán, mọi thành viên đều tốt nghiệp)

  • Iwata Karen (Team A)
  • Watanabe Mayu (Team B)
  • Nakaya Sayaka (Team A)
  • Sato Amina (Team B)
  • Hata Sawako (Team KII)
  • Yagami Kumi (Team S)
  • Mita Mao (Team M)
  • Ishida Haruka (Team A)
  • Sato Sumire (Team B)

Các nhóm nhỏ cho album

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Up-and-coming girls
  • Sashining Musume. (サシニング娘。)[516]
  • WRD48[517]
  • Honegumi from AKB48 (ほね組 from AKB48) (2007)
  • ICE from AKB48 (2007)
  • Crayon Friends from AKB48 (新ユニット「クレヨンフレンズ from AKB48」): hợp tác giữa AKB48 và Crayon Shin-chan
  • Okashina Sisters (お菓子 な シスターズ?)
  • AKBIdoling!!! (AKBアイドリング!!!): hợp tác giữa AKB48 và Idoling!!!
  • AKB Takkyubu (AKB卓球部)
  • Porrima from AKB48
  • Team BS
  • Milk Planet (ミルクプラネット)
  • NyaaKB with Tsuchinoko Panda (ニャーKB with ツチノコパンダ)
  • YJ7
  • YM7
  • BABY GAMBA (ベビーガンバ)
  • Ojarumaru Sisters (おじゃる丸シスターズ)
  • Sukeban Girls (スケバンGirls)
  • Watarirōka Hashiritai (渡り廊下走り隊?) (2013)
  • 75 years Yomiuri Giants Foundation (読売巨人軍創立75周年応援隊): hợp tác giữa AKB48, SKE48 và Đội Bóng chày Yomiuri Giants
  • Natto Angel (ナットウエンジェル): do Miyazaki Miho, Tomomi Kasai, Itano Tomomi sáng lập
  • Queen & Elizabeth: nhóm nhỏ hát bài hát chính cho bộ phim Kaimen Rider W
  • Team Dragon from AKB48 (チームドラゴン from AKB48): sub-unit được lập để hát bài hát chính cho bộ phim Dragon Ball
  • Natto Angels Z (ナットウエンジェル Z)
  • Miniskirt (ミニスカート): hợp tác giữa AKB48 và Takara Tomy
  • AKB48 Kaspersky (AKB48 カスペルスキー 研究所): hợp tác giữa AKB48 và Kaspersky Lab
  • Team KISHIN from AKB48: hợp tác giữa AKB48 và Kishin Shinoyama
  • Team Z: hợp tác giữa AKB48 và Kyoraku Sangyo cho "Pachinko Zenigata Heiji"
  • Sashihara Rino with AKB48 Team 8 (指原莉乃 with AKB48 Team 8): Sashihara Rino cùng Team 8 quảng bá xe hơi hybrid Toyota Prius PHV
  • Nona Diamonds (ノナ ダイヤモンズ)
  • SenSuality (センシュアリティ)
  • Mayuzaka46 (まゆ坂46): hợp tác giữa Watanabe Mayu và Nogizaka46
  • AnRiRe (アンリレ)
  • Tentoumu Chu! (てんとうむChu!)
  • Dendenmu Chu! (でんでんむChu!)

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Set List: Greatest Songs 2006–2007 (2008)
  • Kamikyokutachi (2010)
  • Koko ni Ita Koto (2011)
  • 1830m (2012)
  • Tsugi no Ashiato (2014)
  • Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe! (2015)
  • 0 to 1 no Aida (2015)
  • Thumbnail (2017)
  • Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake o Shitteiru (2018)

Danh sách phim & chương trình truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách sự kiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Các chuyến lưu diễn & concert

[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc tổng tuyển cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi ra mắt, nhóm tổ chức 10 cuộc tổng tuyển cử từ 2009

Năm Tên Thời gian Địa điểm Ghi chú
2009 AKB48 13th Single Senbatsu Sousenkyo ~Kamisama ni Chikatte Gachi desu~ (AKB48 13thシングル 選抜総選挙 ~神様に誓ってガチです~)[518] 8/7 Akasaka Blitz, Tokyo Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên cho single thứ 13 Iiwake Maybe, có sự tham gia từ SKE48, Maeda Atsuko thắng cuộc với 3489 phiếu bầu
2010 AKB48 17th Single Senbatsu Sousenkyo ~Kaasan ni Chikatte, Gachi desu~ (AKB48 17thシングル選抜総選挙 ~母さんに誓って、ガチです~)[519] 9/6 JCB Hall, Tokyo Dome, Tokyo Cuộc tổng tuyển cử thứ 2 cho single thứ 17 Heavy Rotation, có sự tham gia từ SKE48, Oshima Yuko thắng cuộc với 31448 phiếu bầu
2011 AKB48 22nd Single Senbatsu Sousenkyo ~Kotoshi mo Gachi desu~ (AKB48 22ndシングル選抜総選挙 ~今年もガチです~)[520] Nippon Budoukan, Tokyo Cuộc tổng tuyển cử thứ 3 cho single thứ 22 Flying Get, có sự tham gia từ SKE48 & NMB48, Maeda Atsuko thắng cuộc với 139892 phiếu bầu
2012 AKB48 27th Single Senbatsu Sousenkyo ~Fan ga Erabu 64giseki~ (27thシングル 選抜総選挙 ~ファンが選ぶ64議席~)[521] 6/6 Cuộc tổng tuyển cử thứ 4 cho single thứ 27 Gingham Check, có sự tham gia từ SKE48, NMB48 & HKT48, Oshima Yuko thắng cuộc với 108837 phiếu bầu
2013 AKB48 32nd Single Senbatsu Sousenkyo "Yume wa Hitori ja Mirarenai" (32thシングル 選抜総選挙 ~夢は一人じゃ見られない~)[522] 8/6 Sân vận động Nissan, Yokohama Cuộc tổng tuyển cử thứ 5 cho single thứ 32 Koisuru Fortune Cookie, có sự tham gia từ SKE48, NMB48, HKT48, Team Kaigai[i], các thành viên tốt nghiệp, Sashihara Rino thắng cuộc với 150570 phiếu bầu
2014 AKB48 37th Single Senbatsu Sousenkyo "Yume no Genzaichi ~Rival wa Doko da~" (AKB48 37thシングル選抜総選挙 夢の現在地〜ライバルはどこだ?〜)[523] 7/6 Sân vận động Ajinomoto, Chofu, Tokyo Cuộc tổng tuyển cử thứ 6 cho single thứ 37 Kokoro no Placard, có sự tham gia từ SKE48, NMB48, HKT48, Team Kaigai, Watanabe Mayu thắng cuộc với 159854 phiếu bầu
2015 AKB48 41st Single Senbatsu Sousenkyo (AKB48 41stシングル選抜総選挙?) [524] 6/6 Fukuoka Yahoo! Japan Dome, Fukuoka Cuộc tổng tuyển cử thứ 7 cho single thứ 41 Halloween Night, có sự tham gia từ SKE48, NMB48, HKT48, Team Kaigai, Sashihara Rino thắng cuộc với 194049 phiếu bầu
2016 AKB48 45th Single Senbatsu Sousenkyo 〜Bokutachi wa Dare ni Tsuiteikeba ii?〜 (AKB48 45thシングル 選抜総選挙~僕たちは誰について行けばいい?~?)[525] 18/6 Hard Off Eco Stadium Niigata, Niigata Cuộc tổng tuyển cử thứ 8 cho single thứ 45 LOVE TRIP / Shiawase wo Wakenasai, có sự tham gia từ SKE48, NMB48, HKT48, NGT48, Team Kaigai, Sashihara Rino thắng cuộc với 243011 phiếu bầu
2017 AKB48 49th Single Senbatsu Sousenkyo 〜Mazu wa Tatakaou! Hanashi wa Sorekara da〜 (49thシングル 選抜総選挙~まずは戦おう!話はそれからだ~)[526] 17/6 Toyosaki Seaside Park, Okinawa Cuộc tổng tuyển cử thứ 9 cho single thứ 49 #SukiNanda, có sự tham gia từ SKE48, NMB48, HKT48, STU48, NGT48, BNK48[j]; Sashihara Rino có lần thứ 3 liên tiếp thắng cuộc với 246376 phiếu bầu (4 lần tổng thể)
2018 AKB48 53rd Single Sekai Senbatsu Sousenkyo 〜Sekai no Center wa Dare da?〜(AKB48 53rdシングル 世界選抜総選挙 〜世界のセンターは誰だ?〜)[527] 16/6 Nagoya Dome, Nagoya Cuộc tổng tuyển cử thứ 10 cho single thứ 53 Sentimental Train, có sự tham gia từ SKE48, NMB48, HKT48, STU48, NGT48, lần đầu tiên các nhóm chị em nước ngoài JKT48, BNK48 (lần 2), TPE48 được đăng ký tham gia, Matsui Jurina thắng cuộc với 194453 phiếu bầu

AKB48 Kouhaku Utagassen

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thời gian Đội thắng Ghi chú
Akagumi Shirogumi
2011[528] 20/12 X Lần đầu tổ chức
2012[529] 17/12 X Lần thứ 2 tổ chức, cũng là buổi biểu diễn cuối cùng của Masuda Yuka.
2013[530] X Lần thứ 3 tổ chức, SKE48, NMB48, HKT48, WORLD ORDER cùng tham dự
2014[531] 16/12 X Lần thứ 4 tổ chức, ban giám khảo (Kobayashi Yoshinori, Uno Tsunehiro, Hamano Satoshi, Nakamori Akio,Tanaka Masahiro) bình chọn đội thắng
2015[532] 15/12 X Lần thứ 5 tổ chức, Takajo Aki tốt nghiệp AKB48,Team A công bố Stage mới, thông báo Senbatsu single thứ 43 Kimi wa Melody
2016[533] X Lần thứ 6 tổ chức
2017[534] 10/12 X Lần thứ 7 tổ chức, nhóm thông tin chi tiết về Produce 48 & Iriyama Anna sẽ chuyển đến Mexico để học tập và đóng phim LIKE tại đây

Janken Taikai

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Thời gian Địa điểm Ghi chú
2010 AKB48 19th Single Janken Taikai (AKB48 19thシングル選抜じゃんけん大会[535] 21/9 Nippon Budoukan Lần đầu tổ chức, chọn 16 thành viên cho single thứ 19 Chance no Junban, bài hát Beginner được công chiếu tại đây
2011 AKB48 24th Single Senbatsu Janken Taikai (AKB48 24thシングル選抜じゃんけん大会)[536] 20/9 Lần thứ 2 tổ chức, chọn 16 thành viên cho single thứ 24 e Kara Mariko, NMB48 cùng SKE48 tham dự
2012 AKB48 29th Single Senbatsu Janken Taikai (AKB48 29thシングル選抜じゃんけん大会)[537] 18/9 Lần thứ 3 tổ chức, chọn 16 thành viên cho single thứ 29 Eien Pressure, HKT48 có lần đầu dự
2013 AKB48 34th Single Senbatsu Janken Taikai (AKB48 34thシングル選抜じゃんけん大会)[538] Lần thứ 4 tổ chức, chọn 16 thành viên cho single thứ 34 Kimi no Hohoemi wo Yume ni Miru
2014 AKB48 2014 Janken Taikai (AKB48グループ・じゃんけん大会2014 〜拳で勝ち取れ!1/300ソロデビュー争奪戦〜)[539] 17/9 Người chiến thằng được ra mắt với tư cách solo. Đồng thời, các thành viên từ hạng 2-16 sẽ tham gia vào bài hát đính kèm và xuất hiện trong PV bài hát, năm 2015 NGT48 góp mặt
2015 AKB48 2015 Janken Taikai (AKB48グループ ソロシングル争奪じゃんけん大会in横浜アリーナ〜 こんなところで、運なんか使っちゃうのかと思うかもしれないが、とりあえず、勝たなきゃしょうがないだろ?〜)[540] 16/9 Yokohama Arena
2016 AKB48 2016 Janken Taikai (AKB48グループ ユニットシングル争奪じゃんけん大会in神戸ワールド記念ホール)[232] 16/10 Kobe World Kinen Hall Người thắng cuộc sẽ là center của nhóm nhỏ mới thành lập với các thành viên thắng cuộc trong top 7, các thành viên xếp hạng từ #8 đến #14 sẽ xuất hiện trong bài hát đính kèm và PV, Sinka Juliani đại diện JKT48 góp mặt
2017 AKB48 Group Unit Janken Tournament 2017 (AKB48グループユニットじゃんけん大会2017)[541] 24/9 Nippon Gaishi Hall Khác mọi năm, các thành viên có thể tự lập đội và chọn đại diện thi đấu với đội khác để giành thắng cuộc
2018 AKB48 Group Unit Janken Tournament 2018 (AKB48グループユニットじゃんけん大会2018)[542] 23/9 Katayanagi Arena

Sự kiện thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Thời gian Địa điểm Ghi chú
2009 First AKB48 Dai Undokai (第1回AKB48大運動会) 10/10 Saitama Super Arena Lần đầu tổ chức
2015 Second AKB48 Dai Undokai (第2回AKB48大運動会) 9/5 Tokyo Dome Lần thứ 2 tổ chức
First AKB48 Group Team Taiko Dai Undokai (第1回AKB48グループチーム対抗大運動会)[217] 25/8 Lần thứ 3 tổ chức
2016 Second AKB48 Group Team Taiko Dai Undokai (第2回AKB48グループチーム対抗大運動会)[543] 6/8 Saitama Super Arena Lần thứ 4 tổ chức
2020 AKB48 e-Sports Tournament 〜Hanarete Tsuyokunatta Mono, wa Hommono.〜 (AKB48 e運動会 〜離れて強くなったもの、は本物。〜)[544] 23/11 Tổ chức trực tuyến Lần thứ 5 tổ chức, thi đấu Thể thao điện tử

AKB48 Group Draft Kaigi

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Thời gian Địa điểm Ghi chú
2013 AKB48 Group Draft Kaigi 2013[453] 10/11 Grand Prince Hotel New Takanawa Lần đầu tổ chức
2015 AKB48 Group Draft Kaigi 2015[454] 10/5 Ariake Colosseum Lần thứ 2 tổ chức
2018 AKB48 Group Draft Kaigi 2018[455] 21/1 Tokyo Dome City Hall Lần thứ 3 tổ chức

AKB48 Group Singing Competition

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Thời gian Địa điểm Ghi chú
2019 AKB48 Group First Singing Contest[545] 11/1 Akasaka ACT Theater Top 8 thành viên có bộ phim tài liệu ra mắt ngày 23/3 và biểu diễn tại concert ngày 25/3
AKB48 Group Second Singing Contest[546] 31/10 Top 8 thành viên có bộ phim tài liệu ra mắt ngày 30/11 và biểu diễn tại concert ngày 4/2/2020
2020 AKB48 Group Third Singing Contest[547] 1/12
  • Top 8 + 1 thành viên đặc biệt sẽ có bộ phim tài liệu cũng như biểu diễn trong concert. Họ cũng sẽ nhận được một bài hát được viết bởi giám khảo Kurosawa Kaoru
  • Vào ngày 21/5/2021, 9 người thắng cuộc ra mắt nhóm nhỏ Nona Diamonds, với đĩa đơn đầu tay sẽ được phát hành vào ngày 30/6/2021 (cùng ngày tốt nghiệp của Nojima Kano)
2022 AKB48 Group 4th Singing Contest[548] 12/1 Maihama Amphitheater Okada Nana thắng cuộc[549]
2023 AKB48 Group 5th Singing Contest[550] 3/3 Tokyo Seinenkan Hall Ikeda Yura thắng cuộc
2024 AKB48 Group 6th Singing Contest

Natsu Matsuri

[sửa | sửa mã nguồn]
  • AKB48 Natsu Matsuri 2014[551]

Unit Battles

[sửa | sửa mã nguồn]
  • AmebaPigg Unit Battle[552]

AKB48 THE AUDISHOW

[sửa | sửa mã nguồn]
  • AKB48 THE AUDISHOW 2021[553]

Giải thưởng và thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách giải thưởng và đề cử của AKB48
Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả
2009 51st Japan Record Awards[554] Special Award AKB48 Đoạt giải
Mnet Asian Music Awards 2009[555] Asia Recommended Award (Japan) River Đoạt giải
Best Hits Kayosai[556] Gold Artist AKB48 Đoạt giải
2010 17th Bowling Mass Media Award[557] Grand Prix Đoạt giải
24th Japan Gold Disc Award[558] Special Award Đoạt giải
18th Sponichi Cultural Arts Awards[559] Excellent Award Đoạt giải
COSU MODE POWER 2010[560] Best of COSU MODE POWER 2010 Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards[561] Top Pop Artists Đoạt giải
2010 Shogakukan DIME Trend Award[562] Special Award Đoạt giải
Best Hits Kayosai[563] Gold Artist Đoạt giải
Good Design Award[564] Entertainment Project Design Đoạt giải
52nd Japan Record Awards[565] Excellent Work Award Beginner Đoạt giải
2011 25th Japan Gold Disc Award[566] Single of the Year Beginner Đoạt giải
Best 5 Singles Beginner, Ponytail to Shushu, Heavy Rotation Đoạt giải
Tokyo Sports Film Award [567] Special Award AKB48 Đoạt giải
FUN OF THE YEAR 2011[568] Đoạt giải
16th AMD Awards[569] Excellence Award Đoạt giải
44th Japan Cable Awards[570] Excellence Award Đoạt giải
Special Award Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards[571] Artist of the Year Đoạt giải
Top Pop Artists Đoạt giải
Hot 100 of the Year Everyday, Katyusha Đoạt giải
Hot 100 Singles Sales of the Year Đoạt giải
53rd Japan Record Awards[572] Grand Prix Flying Get Đoạt giải
70th Television Drama Academy Awards[573] Drama Song Award Đoạt giải
2012 Billboard Japan Music Awards[574] Artist of the Year AKB48 Đoạt giải
Top Pop Artists Đoạt giải
Hot 100 of the Year Manatsu no Sounds Good! Đoạt giải
Hot 100 Singles Sales of the Year Đoạt giải
54th Japan Record Awards[159] Grand Prix Đoạt giải
11th CCTV-MTV Music Award[575] The Asia's Most Popular Group (special award) AKB48 Đoạt giải
Mnet Asian Music Awards[576] Best Asian Artist Japan Đoạt giải
45th Japan Cable Awards[577] Cable Music Excellence [Outstanding Performance] Award Đoạt giải
26th Japan Gold Disc Award[578] Artist of the Year Đoạt giải
Single of the Year Everyday, Katyusha Đoạt giải
Best 5 Songs by Download Đoạt giải
Best 5 singles Kaze wa Fuite Iru, Everyday, Katyusha, Sakura no Ki ni Narō, Chance no Junban, Flying Get Đoạt giải
Best 5 Albums Koko ni Ita Koto Đoạt giải
Best Music Videos AKB ga Ippai ~The Best Music Video~ (AKBがいっぱい〜ザ・ベスト・ミュージックビデオ〜) Đoạt giải
2013 Billboard Japan Music Awards[579] Artist of the Year AKB48 Đoạt giải
Top Pop Artists Đoạt giải
Hot 100 of the Year Koisuru Fortune Cookie Đoạt giải
Hot Singles Sales of the Year Sayonara Crawl Đoạt giải
27th Japan Gold Disc Award[580] Artist of the Year AKB48 Đoạt giải
Single of the Year Manatsu no Sounds Good! Đoạt giải
Best 5 singles Manatsu no Sounds Good!, Gingham Check, GIVE ME FIVE!, UZA, Ue kara Mariko Đoạt giải
Best 5 Albums 1830m Đoạt giải
55th Japan Record Awards[581] Gold Award Koisuru Fortune Cookie Đoạt giải
Grand Prix Đề cử
46th Japan Cable Awards[582] Cable Music Excellence [Outstanding Performance] Award AKB48 Đoạt giải
2014 56th Japan Record Awards[583] Grand Prix Labrador Retriever Đề cử
28th Japan Gold Disc Award[584] Artist of the Year (Japan) AKB48 Đoạt giải
Single of the Year Sayonara Crawl Đoạt giải
Best 5 singles Eien Pressure, Sayonara Crawl, Koi Suru Fortune Cookie, Suzukake Nanchara, Heart Electric Đoạt giải
Song of the year by download Koisuru Fortune Cookie Đoạt giải
Best 5 Songs by Download Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards[585] Hot Singles Sales of the Year Labrador Retriever Đoạt giải
47th Japan Cable Awards[586] Cable Music Excellence [Outstanding Performance] Award Kokoro no Placard Đoạt giải
The 27th Japan Best Dressed Eyes Awards[587] Special Sunglasses category AKB48 Đoạt giải
18th space shower music video award[588] Special Award Koisuru Fortune Cookie Đoạt giải
2015 57th Japan Record Awards[589] Grand Prix Bokutachi wa Tatakawanai Đề cử
29th Japan Gold Disc Award[590] Single of the year Labrador Retriever Đoạt giải
Album of the Year Tsugi no Ashiato Đoạt giải
Best 5 singles Kibouteki Refrain, Kokoro no Placard, Labrador Retriever, Mae shika Mukanee Đoạt giải
Best 5 Albums Tsugi no Ashiato Đoạt giải
48th Japan Cable Awards Cable Music Excellence [Outstanding Performance] Award Kuchibiru ni Be My Baby Đoạt giải
Mnet Asian Music Awards 2015[591] Best Asian Artist Japan AKB48 Đoạt giải
The 3rd V Chart Awards[592] Favorite Artist Of The Year Đoạt giải
Top Group – Japan Đoạt giải
2016 Billboard Japan Music Awards[593] Artist of the year Đoạt giải
Hot 100 of the Year Tsubasa wa Iranai Đoạt giải
Top Singles Sales of the Year Đoạt giải
30th Japan Gold Disc Award[594] Single of the Year Bokutachi wa Tatakawanai Đoạt giải
Best 5 Albums Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!

0 to 1 no Aida

Đoạt giải
Best 5 singles Kuchibiru ni Be My Baby, Green Flash, Halloween Night, Bokutachi wa Tatakawana Đoạt giải
58th Japan Record Awards[595] Excellent Work Award 365 nichi no kamihikouki Đoạt giải
49th Japan Cable Awards Cable Music Excellence [Outstanding Performance] Award Đoạt giải
11th Taisho Ryou Music Award[596] Grand Prix Đoạt giải
88th Television Drama Academy Awards[597] Best Theme Song Award Đoạt giải
8th Dahsyatnya Awards[598] Best Guest Award (Bintang Tamu Terdahsyat) AKB48 Đoạt giải
2016 YOUKU Festival[599] Popular idol group award Đoạt giải
2017 31st Japan Gold Disc Award[600] Single of the Year Tsubasa wa Iranai Đoạt giải
Best 5 singles Kimi wa Melody, Halloween Night, Tsubasa wa Iranai, LOVE TRIP / Shiawase wo Wakenasai Đoạt giải
The 11th Taishogoto Music Awards[601] Grand Prix 365 nichi no kamihikouki Đoạt giải
Mnet Asian Music Awards 2017[252] Best Asian Artist Japan AKB48 Đoạt giải
Asia New Song Ranking 2017 Shengren[602] Best Group Award Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards Top Singles Sales of the Year Negaigoto no Mochigusare Đoạt giải
59th Japan Record Awards[603] Excellent Work Award Đoạt giải
Grand Prix Đề cử
2018 32nd Japan Gold Disc Award[604] Single of the Year Negaigoto no Mochigusare Đoạt giải
Best 5 Albums (Japanese) Thumbnail Đoạt giải
Best 5 Singles 11gatsu no Anklet, Shoot Sign, Negaigoto no Mochigusare, #SukiNanda Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards Top Singles Sales of the Year Teacher Teacher Đoạt giải
60th Japan Record Awards[605] Grand Prix Đề cử
2019 61st Japan Record Awards[606] Sustainable Đề cử
33rd Japan Gold Disc Award[607] Single of The Year Teacher Teacher Đoạt giải
Best 5 Albums (Japanese) Bokutachi wa, Ano Hi Yoake wo Shitteiru Đoạt giải
Best 5 Singles Teacher Teacher, Sentimental Train, No Way Man Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards Top Singles Sales of the Year Sustainable Đoạt giải
2020 34th Japan Gold Disc Awards[608] Single of The Year Đoạt giải
Best 5 Singles Sustainable, Jiwaru Days Đoạt giải
62nd Japan Record Awards[609] Excellent Work Awards Hanarete Ite mo Đoạt giải
Billboard Japan Music Awards Top Singles Sales of the Year Shitsuren, Arigato Đoạt giải
2021 35th Japan Gold Disc Awards[323] Best 5 Singles Đoạt giải
63rd Japan Record Awards[610][611] Grand Prix Nemohamo Rumor Đề cử
Excellent Work Award Đoạt giải

Những kỷ lục

[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 và những bài hát của nhóm đã lập những kỷ lục sau[612]:

  • Kỷ lục Guinness cho nhóm nhạc nữ lớn nhất thế giới.[4][613][614]
  • Kỷ lục Guinness cho số lượng ca sĩ nhạc Pop nhiều nhất xuất hiện trong một trò chơi điện tử: Vào tháng 12/2012, trò chơi mô phỏng hẹn hò AKB1/149 Ren'ai Sōsenkyo có 149 thành viên tham gia.[158]
  • Kỷ lục Guinness cho nhóm nhạc xuất hiện nhiều nhất trong các clip quảng cáo truyền hình khác nhau trong 1 ngày: Vào tháng 2/2012, các thành viên AKB48 xuất hiện trong 90 quảng cáo cho Wonda Coffee Morning Shot của Asahi, phá vỡ kỷ lục 60 quảng cáo trước đó.[394][615]
  • Nghệ sĩ nữ bán được nhiều đĩa đơn nhất Nhật Bản: Vào tháng 5/2013, sau khi phát hành đĩa đơn thứ 31 "Sayonara Crawl", doanh số chung cho các đĩa đơn của AKB48 đạt 21,852 triệu kể từ khi ra mắt lần đầu năm 2006 (phá kỷ lục trước đó của Hamasaki Ayumi là 21,416 triệu) [616]
  • Nhóm nhạc nữ có số lượng đĩa đơn bán ra cao nhất Nhật Bản: Vào tháng 6/2013, doanh số của "Sayonara Crawl" đạt 1,872 triệu bản, phá vỡ kỷ lục của nhóm Speed ​​năm 1997 cho "White Love" (1,845 triệu bản). Tổng doanh số của đĩa đơn đạt 1.955.800[168][169]
  • Có nhiều đĩa đơn liên tiếp bán được triệu bản nhất tại Nhật Bản: Vào tháng 10/2013. đĩa đơn thứ 33 "Heart Electric" bán được 1.021.000 bản trong ngày đầu tiên ra mắt, trở thành đĩa đơn đạt mốc 1 triệu bản thứ 14 liên tiếp của nhóm và phá vỡ kỷ lục trước đó là 13 do B'z nắm giữ.[617]
  • Có nhiều đĩa đơn bán được triệu bản nhất tại Nhật Bản: Vào tháng 12/2013, đĩa đơn thứ 34 "Suzukake no Ki no Michi de "Kimi no Hohoemi wo Yume ni Miru" to Itteshimattara Bokutachi no Kankei wa Dou Kawatteshimaunoka, Bokunari ni Nannichi ka Kangaeta Ue deno Yaya Kihazukashii Ketsuron no youna Mono" (gọi tắt là Suzukake Nanchara) bán được 1.033.000 bản trong tuần đầu tiên, đây là đĩa đơn đạt triệu bản thứ 16 của AKB48, phá vỡ kỷ lục trước đó do B'z nắm giữ trong 13 năm 9 tháng.[618]
  • Doanh số bán đĩa đơn cho nghệ sỹ nữ cao nhất tại Nhật Bản: Vào tháng 6/2017, đĩa đơn thứ 48 "Negaigoto no Mochigusare" bán được 2.555.912 bản trong tuần đầu ra mắt, phá vỡ kỷ lục trước đó do Dreams Come True nắm giữ[619]
  • Doanh số bán đĩa đơn cao nhất ở Nhật Bản: Tổng doanh số 60 đĩa đơn của AKB48 đạt 73,5 triệu bản.[620]

Các nhóm nhạc "chị em" đồng hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Akimoto Yasushi đã tạo ra những "nhóm chị em" cùng đồng hành với AKB48 dựa trên tiêu chí "thần tượng bạn có thể gặp mặt". Những nhóm này cũng có những nhà hát riêng tại Nhật Bản cùng các nước châu Á và có những đĩa đơn riêng. Những thành viên của các nhóm nhạc chị em đôi khi cũng xuất hiện trong những buổi trình diễn và đĩa đơn của AKB48 [621][622] Matsui Jurina (SKE48) và Watanabe Miyuki (NMB48), thành viên của các nhóm chị em với AKB48 cũng là những thành viên kiêm nhiệm đầu tiên của AKB48.[623]

Một số nhóm chị em thuộc AKB48 Group:
Hàng 1: SKE48, NMB48, HKT48, AKB48 Team TP
Hàng 2: JKT48, BNK48, CGM48

Nhóm nhạc chị em đầu tiên của AKB48 là SKE48 ra mắt năm 2008 tại Sakae, Nagoya.[63][624] Sau đó SDN48[k], NMB48 (Osaka–2010) & HKT48 (Fukuoka–2011) lần lượt ra mắt[625][626][627]. Năm 2011, AKB48 công bố thành lập nhóm chị em đầu tiên bên ngoài Nhật Bản JKT48 tại Jakarta, Indonesia[628], sau đó là SNH48 tại Thượng Hải, Trung Quốc vào năm 2012[145], tuy nhiên SNH48 đã tách ra khỏi PJ48 vào 2016 và hiện đang hoạt động độc lập[629], về sau AKB48 thành lập AKB48 China vào 12/10/2016, ra mắt AKB48 Team SH vào năm 2018[630].

Ngoài các nhóm chị em, AKB48 cũng có "đối thủ chính thức" là nhóm Sakamichi Series cùng chung nhà sản xuất Akimoto Yasushi thành lập vào 2011, gồm 4 nhóm: Nogizaka46 và các nhóm chị em Sakurazaka46, Yoshimotozaka46 và Hinatazaka46 sau khi Sony Music Japan xây dựng tòa nhà văn phòng chính.[631]

Năm 2015, tại concert AKB48 Request Hour Setlist Best 1035, AKS công bố thành lập NGT48Niigata với Kitahara Rie làm đội trưởng và Kashiwagi Yuki kiêm nhiệm[632]. STU48 ra đời năm 2017 tại vùng Setouchi, với rạp hát trong con tàu và đồng sở hữu bởi hội đồng du lịch vùng Setouchi.[633]

Việc thành lập TPE48 được thông báo vào ngày 10/10/2011 trên blog chính thức của AKB48[634]. Vào thời điểm đó, AKS hợp tác với chi nhánh Yoshimoto Kogyo Đài Bắc và dự kiến ​​bắt đầu việc thử giọng vào năm 2012. Tuy nhiên, 2 bên đã không đạt được đồng thuận trong công tác chuẩn bị nên đã ngừng hợp tác nửa cuối năm 2012.

Vào tháng 3/2016, AKS thông báo thành lập 3 nhóm chị em khác ngoài Nhật Bản là BNK48 tại Bangkok, Thái Lan; MNL48 tại Manila, PhilippinesTPE48 tại Đài Bắc, Đài Loan.[635] Vào ngày 30/7/2018, AKS hủy bỏ hợp đồng liên doanh và giấy phép với công ty quản lý TPE48 và tạo nên AKB48 Team TP[636]. CGM48 được đặt theo tên thành phố Chiang Mai, Thái Lan là nhóm chị em trong nước của BNK48 được công bố tại Chiang Mai vào ngày 2/6/2019.[637]

Vào ngày 27/12/2017, Yokoyama Yui - tổng quản kiêm cựu đội trưởng Team A thông báo thành lập MUM48 tại Mumbai, Ấn Độ vào năm 2018 thông qua buổi trực tiếp tại Showroom[638]. Vào ngày 19/6/2019, MUM48 đổi tên thành MUB48 và công bô thành lập DEL48 tại Delhi[639]. Vào tháng 10/2020, hầu hết các thành viên đã mở tài khoản Instagram cá nhân, dẫn đến tin đồn tan rã. Deepak Nandal, nhà sản xuất DEL48 xác nhận YKBK48 giải thể nhóm và sẽ chấm dứt hợp đồng các thành viên vào cuối tháng 10 do đại dịch COVID-19.[640] Đến ngày 13/7/2022, YKBK48 thông báo đóng cửa hoạt động của mình[641].

Ngày 21/6/2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, AKS có buổi công bố nhóm nhạc mới sẽ hoạt động tại thị trường Việt Nam lấy tên là SGO48, tuyển chọn thành viên bắt đầu từ tháng 7[642], nhóm ra mắt vào ngày 17/11 cùng năm[643]. Vào ngày 5/12/2021, nhóm thông báo sẽ chính thức dừng hoạt động do đại dịch COVID-19, đồng thời cho biết sự kiện kỷ niệm 3 năm thành lập nhóm vào ngày 22/12 sẽ là hoạt động cuối cùng của nhóm[644].

Vào ngày 1/1/2024, AKB48 Group thông báo thành lập nhóm KLP48 đặt tại Kuala Lumpur, Malaysia.[645] Nhóm ra mắt vào tháng 7 cùng năm.[646]

  1. ^ Promotional video- Phim video quảng bá
  2. ^ "Enjo-kosai" (援助交際) là thuật ngữ mô tả hiện tượng nữ sinh quan hệ tình dục với những người đàn ông lớn tuổi để kiếm tiền.
  3. ^ Các thành viên tham gia: AKB48 - Mukaichi Mion, Yokoyama Yui, Kashiwagi Yuki, Takahashi Juri, Okada Nana, Yamauchi Mizuki, Okabe Rin, Oguri Yui. SKE48 - Matsui Jurina, Suda Akari. NMB48 - Shiroma Miru. HKT48 - Sashihara Rino, Tanaka Miku NGT48 - Ogino Yuka, Nakai Rika. STU48 - Takino Yumiko. BNK48 - Miori, Mobile, Music, Mewnich, Pun, Orn, Kaew, Jennis, Pupe, Kaimook, Jane, Fond, New, Faii, Korn và Myyu
  4. ^ Các thành viên tham gia:
    AKB48: Iriyama Anna, Kato Rena, Taguchi Aika, Chiba Eri, Nishikawa Rei, Maeda Ayaka, Mukaichi Mion, Yamane Ryoha, Kashiyama Yui, Minegishi Minami, Muto Tomu, Komiyama Haruka, Kashiwagi Yuki, Oya Shizuka, Sasaki Yukari, Iwatate Saho, Taniguchi Megu, Fukuoka Seina, Satone Kubo, Omori Maho, Murayama Yuiri, Okada Nana, Nagisa Asai, Mizua Yamato, Sakaguchi Nagisa, Okabe Rin, Oguri Yui, Erina Oda, Serika Nagano, Onishi Momoka, Shitao Miu, Gyoten Yurina, Kuranoo Narumi.; SKE48: Suda Akari; NMB48: Shiroma Miru, Yoshida Akari; HKT48: Tanaka Miku; NGT48: Homma Hinata; STU48: Ishida Chiho, Takino Yumiko; JKT48: Shani.; BNK48: Mobile; MNL48: Abby; AKB48 Team SH: Lưu Niệm; AKB48 Team TP: Khâu Phẩm Hàm;SGO48: Anna (Trần Cát Tường); CGM48: Sita; DEL48 :Glory.
  5. ^ Taniguchi Megu & Honda Hitomi thay thế Kashiwagi Yuki & Yokoyama Yui vì lý do sức khỏe, Kato Rena thay thế Mukaichi Mion do dương tính với COVID-19
  6. ^ Iriyama Anna, Okabe Rin, Oguri Yui, Kato Rena, Shitao Miu, Taguchi Manaka, Chiba Erii, Nishikawa Rei, Mukaichi Mion, Yokoyama Yui, Kuranoo Narumi, Muto Tomu, Omori Maho, Kubo Satone, Taniguchi Megu, Fukuoka Seina, Honda Hitomi, Asai Nanami, Onishi Momoka, Okada Nana, Murayama Yuiri, Yamauchi Mizuki tham gia biểu diễn
  7. ^ Omori Maho, Kubo Satone, Taniguchi Megu, Honda Hitomi, Onishi Momoka, Okada Nana, Murayama Yuiri, Yamauchi Mizuki, Okabe Rin, Oguri Yui, Chiba Erii, Yokoyama Yui, Kuranoo Narumi, Oda Erina, Shitao Miu, Muto Tomu tham gia biểu diễn
  8. ^ Những chàng trai 'ăn cỏ'/Herbivore men -(草食(系)男子, Sōshoku(-kei) danshi) là thuật ngữ chỉ những chàng trai trẻ, kiếm tiền ít, tiêu cũng ít. Họ không mấy quan tâm tới tiền và tình dục nhưng chú ý nhiều hơn tới thời trang và vẻ bề ngoài.
  9. ^ Team của các thành viên được chuyển sang các nhóm chị em nước ngoài thuộc AKB48
  10. ^ Izuta Rina đại diện nhóm tham dự
  11. ^ Saturday Night 48 ra mắt năm 2009, được tạo ra dựa trên khái niệm "thần tượng người lớn", tan rã năm 2012

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Galaxy Records Sells AKB48's Tsugi no Ashiato Album in Philippines”. animenewsnetwork.com. Anime News Network. 6 tháng 11 năm 2015.
  2. ^ a b Monica Hesse (ngày 27 tháng 3 năm 2012). “Japanese girl group AKB48 breezes through D.C. in whirlwind of cuteness”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2012. Truy cập 9 tháng 4 năm 2012.
  3. ^ “ももクロ : "音楽好き"の支持でポストAKBに急浮上? 群雄割拠のアイドルシーン” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital. ngày 6 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2012. Truy cập 18 tháng 5 năm 2012.
  4. ^ a b “Largest pop group”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  5. ^ Hornyak, Tim (ngày 7 tháng 2 năm 2012). “Otaku band AKB48 morphs into $200M business”. CNET News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập 12 tháng 2 năm 2012.
  6. ^ a b c “Oricon reveals "Artist Total Sales Revenue" ranking for 2012”. tokyohive. 6Theory Media, LLC. 20 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  7. ^ “【オリコン】AKB48、女性歴代1位の通算39作首位 33作連続34作目ミリオン”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2021.
  8. ^ “RIAJ gives AKB48 "Teacher Teacher" a "3 Million" certification - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2021.
  9. ^ “シングル年間ランキング-ORICON STYLE ランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập 17 tháng 7 năm 2011.
  10. ^ “【オリコン年間】AKB48、史上初の年間シングルTOP5独占 総売上162.8億円で7冠” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. ngày 19 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2012. Truy cập 19 tháng 12 năm 2011.
  11. ^ “【オリコン】史上初!AKB48が3作連続初週ミリオン 歴代シングル初週売上TOP3独占”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 1 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập 1 tháng 11 năm 2011.
  12. ^ a b “【オリコン】AKB48、10周年ベスト首位 女性グループ歴代1位の通算6作目”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. 24 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2015.
  13. ^ “【オリコン"平成セールス"ランキング】シングルはSMAP、アルバムは宇多田ヒカルが1位 "平成No.1"アーティスト別セールスのB'zからはコメント到着”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2021.
  14. ^ a b “【オリコン】AKB48、シングル総売上日本一3615.8万枚 秋元氏総売上は1億枚突破”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. 9 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2015.
  15. ^ “【オリコン】AKB48、35作連続1位&30作目ミリオン CD総売上5000万枚突破” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 5 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
  16. ^ “【オリコン年間】AKB48、10年連続シングル1位・2位独占 9年連続ミリオン突破”. Oricon Japan. Oricon. 23 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2019.
  17. ^ Matsutani, Minoru (24 tháng 8 năm 2010). “Girl idol group about mass exposure, fans”. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  18. ^ “Japanese Idol Group AKB48 to Perform at MIPCOM | Reuters”. Reuters. 12 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  19. ^ Goldenberg, Victoria. “[interview] AKB48: A classic fantasy for the 21st century”. Purple SKY Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  20. ^ “AKB48: THE SURPRISING TRUTH BEHIND THE WORLD'S BIGGEST BAND”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  21. ^ Việt Lâm. “Nhóm AKB48 đến Việt Nam biểu diễn: Điều gì đã tạo nên biểu tượng J-pop?”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2021.
  22. ^ a b Fujita, Akiko (1 tháng 2 năm 2013). “Pop Star Shaves Head in Remorse for Dating”. ABC. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2021.
  23. ^ “「30歳」アイドル卒業の節目?柏木由紀&須田亜香里がどこまで押し上げる - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2022.
  24. ^ Hải Lan. “Các cô gái trong nhóm nhạc lớn nhất Nhật Bản bị cấm yêu”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  25. ^ “What is AKB48?”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  26. ^ “Từ khi nào mà rời nhóm nhạc được gọi là tốt nghiệp?”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.
  27. ^ “AKBINGO”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  28. ^ “今月も”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  29. ^ “AKB48、劇場公演4000回達成 来場者に「四川(しせん)唐辛子」配布”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  30. ^ “AKB48『お知らせ』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  31. ^ “1st Generation (Original Team A)”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  32. ^ “篠田麻里子、涙と笑顔でAKB卒業 7年半の活動に幕 (AKB48) ニュース-ORICON STYLE”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2013.
  33. ^ “インタビュー:AKB48「天然が多いんです」” (bằng tiếng Nhật). livedoor Co., Ltd. 25 tháng 10 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2021.
  34. ^ (tiếng Nhật)AKB48's first CD "Sakura no Hanabiratachi" Lưu trữ 2014-03-08 tại Wayback Machine (accessed on March 9, 2011)
  35. ^ “2nd Generation (Original Team K)”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  36. ^ “AKB48 デビューCD 「桜の花びらたち」 2/1発売の宣伝トラック”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  37. ^ “チームA 1st Stage「PARTYが始まるよ」【初回生産限定盤】”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  38. ^ “Team A 2nd Stage – Official AKB48 website”. akb48.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2015.
  39. ^ “AKB48、デビュー作が初登場TOP10入り!モー娘。以来の快挙達成!”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  40. ^ “宇佐美友紀が今月一杯でAKB48から卒業することになりました。”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  41. ^ “AKB48 売上 – スカート、ひらり”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  42. ^ “AKB48、ついにメジャーデビュー決定!!”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  43. ^ “チームBオーディション締め切り決定!”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  44. ^ “3rd Generation (Original Team B)”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  45. ^ “来年からの新体制について”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  46. ^ “AITAKATTA AKB48's own anthem”. supermerlion. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  47. ^ “アーティスト&楽曲検索 会いたかった”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  48. ^ “AKB48 売上 – AKB48シングル”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  49. ^ “AKB48 First Concert "Aitakatta ~Hashira wa Naize!~". AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.
  50. ^ “アーティスト&楽曲検索 軽蔑していた愛情”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  51. ^ “Keibetsu Shiteita Aijou”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.
  52. ^ “ライブレポート:AKB48、初の全国ツアーが開幕”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  53. ^ “AKB48—21世纪的丑小鸭传说”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  54. ^ “AKB48公式サイト|ディスコグラフィー” (bằng tiếng Nhật). AKS. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2011.
  55. ^ “夕陽を見ているか?”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  56. ^ “AKB48—21世纪的丑小鸭传说”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  57. ^ a b “NHK紅白歌合戦ヒストリー”. archive.is. 4 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2021.
  58. ^ “紅白にアキバ枠しょこたんら出場 - 芸能ニュース : nikkansports.com”. www.nikkansports.com. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  59. ^ “Set List ~Greatest Songs 2006-2007~”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2021.
  60. ^ Inc, Natasha. “AKB48の新年ニューシングル&AXライブ4daysが決定”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2021.
  61. ^ “AKB48劇場「桜の花びらたち2008」購入者特別プレゼント!”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  62. ^ “AKB48「ポスター44種類コンプでイベント招待」企画、「独禁法違反」のおそれで中止”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  63. ^ a b “AKB48 Launching SKE48 In Nagoya”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  64. ^ “AKB48 member fired over leaked 'Purikura' photo”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  65. ^ 菊地彩香の件について (bằng tiếng Nhật). AKB48 Official Blog. 14 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2021.
  66. ^ “菊地からファンの皆様へ”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  67. ^ “AKBINGO!”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  68. ^ “AKB48コレクター心を刺激する裏ジャケ19パターン”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  69. ^ “松井珠理奈&大島優子!AKB新曲「UZA」はWセンター!!”. Yomiuri. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  70. ^ “大声ダイヤモンド/AKB48”. Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  71. ^ “10年桜 AKB48のプロフィールならオリコン芸能人事典-ORICON STYLE”. Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016.
  72. ^ "AKB48選抜総選挙"開票! トップ当選の前田敦子「AKBに人生捧げる!」”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  73. ^ “言い訳Maybe(マキシ+DVD複合)”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  74. ^ “止めたAKB48、再開したモー娘。"政権交代"が進むアイドル界の「握手会狂想曲」”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  75. ^ “Come and discover AKB48 pop sensation!”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  76. ^ “AKB48 U.S. DEBUT CONCERT IN NYC”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  77. ^ “ゴールド等認定作品一覧 2009年9月”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  78. ^ “AKB48初のシングル首位、17.9万枚で09年女性アーティスト初動売上トップに”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  79. ^ “NHK紅白歌合戦ヒストリー”. archive.is. 19 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2021.
  80. ^ “AKB48 top with Sakura no Shiori”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  81. ^ “神曲たち AKB48のプロフィールならオリコン芸能人事典-ORICON STYLE”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2011.
  82. ^ “AKB48デビュー5年目で初のアルバム首位、秋元氏「長い道のりでした」”. Oricon (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011.
  83. ^ “2010年12月度 認定作品”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2012.
  84. ^ “AKB48が初週50万枚超で首位 モー娘。以来9年半ぶり快挙”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  85. ^ “Japanese Musical Group AKB48 will be Official Guests of Honor at Anime Expo 2010”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  86. ^ “Heavy Rotation”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  87. ^ “【オリコン】AKB48、カラオケでも新記録樹立 「ヘビロテ」が43週連続1位”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  88. ^ “2010 Asia Song Festival to pump up the G20 -”. Official Website of the Seoul (bằng tiếng Anh). 22 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2021.
  89. ^ “[UPDATE: Video Added!] AKB48 performs at the Asia Song Festival 2010”. tokyohive. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2021.
  90. ^ “Beginner”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  91. ^ “AKB48、女性グループ歴代最高の初週売上82.7万枚 5作連続シングル首位”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  92. ^ “AKB48×ハロプロがグラビア初コラボ! 渡辺麻友×鈴木愛理が網タイツ姿で表紙飾る”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  93. ^ “AKB48が「スパシーバ」 モスクワで初コンサート”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  94. ^ “続 AKB48海外公演!!”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  95. ^ “Special Events | Singapore Toy, Games & Comic Convention (STGCC)”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  96. ^ “AKB48・小野恵令奈、卒業後の進路は 「海外留学」&「女優業勉強」”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  97. ^ “AKB48から小野恵令奈が卒業......「明日から自分の夢に向かって」”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  98. ^ “AKB48 5th Anniversary”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  99. ^ “Sakura no Ki ni Narou”.
  100. ^ “AKB48 breaks single-day sales records, sells over 655,000 copies”.
  101. ^ “AKB48 sets record with Sakura no Ki ni Narou”. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  102. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 to be continued "10 Nengo, Shoujo Tachi wa Ima no Jibun ni Nani o Omou Nodarou?". Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  103. ^ “AKB48新アルバムに新曲11曲、SKE・SDN・NMB参加曲も”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  104. ^ a b JpopAsia. “AKB48 Theater Closes Due to Earthquake”. JpopAsia (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  105. ^ “AKB48 groups pledge 500 million yen for earthquake relief”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  106. ^ “AKB48、新シングル&選抜総選挙決定!収益一部を義援金に”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  107. ^ “Activities of AKB48's Tohoku earthquake reconstruction support project”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  108. ^ HKT48 :次は福岡発! AKB48妹プロジェクト始動 (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  109. ^ “HKT48”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  110. ^ “AKB48 to make a guest appearance at "Golden Melody Awards" in Taiwan”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  111. ^ “Everyday, Kachuusha”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  112. ^ “AKB48、研究生昇格組中心の新チーム「チーム4」誕生”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 7 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  113. ^ “AKB 48 newest member Aimi Eguchi is a 'virtual idol'. MediaCorp Pte Ltd. 20 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2011.
  114. ^ “Đỉnh cao công nghệ tạo ca sĩ bằng kỹ thuật 'cắt dán'. Báo điện tử VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2021.
  115. ^ "Nogizaka46" to debut as AKB48′s "official rival". tokyofever.com. 28 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2011. references Oricon article "AKB48公式ライバル"乃木坂46結成 一般公募でメンバー決定”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 29 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  116. ^ AKB48 :上半期売り上げ前年2.5倍の66億円 オリコン2冠 (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  117. ^ Archive-James-Dinh. “Lady Gaga To Perform At MTV Video Music Aid Japan Show”. MTV News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2021.
  118. ^ “〈VMAJ〉にLADY GAGA、AKB48、EXILE、少女時代、SHINeeらが集結 - TOWER RECORDS ONLINE”. tower.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2021.
  119. ^ “Flying Get”. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  120. ^ AKB48 :AKB48 :じゃんけん大会を再び開催 9月に武道館で SKE48、NMB48ら総勢71人参加 (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co., Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  121. ^ “AKB48's second "Rock, Paper, Scissors" Tournament confirmed”. Tokyohive.com. 3 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
  122. ^ “Kaze wa Fuiteiru”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  123. ^ “Ue Kara Mariko”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  124. ^ “【オリコン】AKB48、初の4作連続"初週ミリオン" 今年全5曲が100万枚突破の快挙” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. 13 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011.
  125. ^ “AKB48、2作連続"初日ミリオン" 初日売上歴代最高の104.6万枚” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. 26 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2011.
  126. ^ 日本レコード大賞 : AKB48涙の初栄冠「フライングゲット」 前田敦子号泣、秋元康も祝福 (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  127. ^ “【オリコン年間】AKB48、史上初の年間シングルTOP5独占 総売上162.8億円で7冠” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. 19 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011.
  128. ^ a b “AKB48、女性グループ歴代1位 シングル総売上1178.7万枚” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 6 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  129. ^ “AKB48 forms a band for "GIVE ME FIVE!" + jacket covers”. Tokyohive.com. 23 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
  130. ^ “Japanese Box Office, January 28–29”. Anime News Network. 4 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  131. ^ “Japanese Box Office, February 18–19”. Anime News Network. 28 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  132. ^ “AKB48初のTVアニメ化決定 "声優選抜"9人が主題歌も担当” (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. 18 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2021.
  133. ^ “AKB48's AKB0048 Anime Cast Roles Revealed” (bằng tiếng Nhật). Anime News Network. 1 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  134. ^ “AKB48's AKB0048 Anime Gets 4 Manga Series in 4 Mags – News”. Anime News Network. 21 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
  135. ^ “AKB0048's Themes Sung by AKB48 Spinoff Unit 'No Name' (bằng tiếng Nhật). Anime News Network. 26 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  136. ^ “AKB48米沢瑠美&平嶋夏海、グループを離脱”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 28 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2012.
  137. ^ “AKB48、初の東京ドームコンサートは3DAYS公演”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 24 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  138. ^ “AKB48さいたま初日公演で東京ドーム公演開催発表”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 25 tháng 3 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2012.
  139. ^ “AKB48前田敦子 :不動のセンターが卒業を発表 6年半の活動に幕” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd. 25 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2012.
  140. ^ “Maeda Atsuko Announces Her Graduation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.
  141. ^ “AKB48 in TOKYO DOME ~1830m no Yume~”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  142. ^ “AKB前田卒業公演をGoogle+&YouTubeで完全生配信 ファンの投稿が公演の演出に!” (bằng tiếng Nhật). Oricon, Inc. 21 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2013.
  143. ^ “AKB、今年も6月に総選挙 過去最多240人超出馬 前田の参加は?”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 26 tháng 3 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2012.
  144. ^ Ozawa, Harumi (7 tháng 6 năm 2012). “Oshima's win in AKB48 election big news in Japan”. Japan Today. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2012.
  145. ^ a b “SNH48メンバー26人決まりました”.
  146. ^ “さしこ、AKB48チームA最終公演は6・20” (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  147. ^ sao, Ngôi. “Ca sĩ thần tượng Nhật bị bạn trai tung ảnh nóng”. Ngoisao. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  148. ^ “AKB48アルバムをドーム前発売&じゃんけん大会開催決定” (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  149. ^ “Eien Pressure”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  150. ^ “島崎初センター曲AKB姉妹で盛り上げる/芸能/デイリースポーツ online”. web.archive.org. 10 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  151. ^ Inc, Natasha. “AKB48ぱるるセンター「永遠プレッシャー」に48グループ曲”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.
  152. ^ “大島優子&松井珠理奈のWセンター!AKB新曲「UZA」お披露目 - スポニチ Sponichi Annex 芸能”. スポニチ Sponichi Annex (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.
  153. ^ “1830m”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  154. ^ “AKB前田卒業アルバム名は『1830m』”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.
  155. ^ “J-pop xào xáo vì nhóm nhạc AKB48 cải tổ đội hình”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  156. ^ “Reformation of AKB48 in Tokyo Dome Concert” (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2021.
  157. ^ Walt Disney Records (13 tháng 9 năm 2012). “Walt Disney Animation Studios' "Wreck-It Ralph" Scores Big with Composer Henry Jackman, Plus Original Music from Skrillex, AKB48, Owl City and Buckner & Garcia”. PR Newswire. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2012.
  158. ^ a b “Most pop singers featured in a videogame”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  159. ^ a b AKB48がレコ大連覇!"センター"まゆゆ号泣. SANSPO.COM(サンスポ) (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
  160. ^ “So long!”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  161. ^ “AKB48 and sister groups to hold live concerts at Nippon Budokan in April”. Tokyohive. 26 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2013.
  162. ^ “AKB48 to hold an open-air live concert "AKB48 Super Festival" at Nissan Stadium”. Tokyohive. 27 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2013.
  163. ^ a b “DOCUMENTARY of AKB48 No flower without rain 少女たちは涙の後に何を見る?”. eiga.com (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  164. ^ “Itano Tomomi to graduate from AKB48 this year”. Tokyohive. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
  165. ^ Kono, Tommy (24 tháng 10 năm 2012). “AKB48 announced 5-Dome Tour in 2013 Summer and Team Shuffle at Budokan Concert Final”. AKB48WrapUp.com. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2013.
  166. ^ “AKB48、今年の総選挙は立候補制&日産スタジアムで開票” (bằng tiếng Nhật). Natalie. 27 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  167. ^ “Sayonara Crawl”. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  168. ^ a b “AKB48's latest single is the best selling single for a female group”. tokyohive. 7 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  169. ^ a b “AKB48「さよならクロール」累積売上185万枚突破、SPEED「White Love」を上回り女性グループ史上最高記録更新!” (bằng tiếng Nhật). The Natsu Style. 3 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2021.
  170. ^ “[Completed] AKB48 32nd Single Senbatsu General Election results!”. 8 June 2013. Tokyohive. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
  171. ^ “AKB48's Shinoda Mariko announces her graduation from the group next month”. 8 June 2013. Tokyohive. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2013.
  172. ^ “Atsuko Maeda makes guest appearance at AKB48 concert”. Japan Today. 31 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2013.
  173. ^ “Koi Suru Fortune Cookie”. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  174. ^ “3800人背にセンターさしこ!AKB新曲「恋するフォーチュンクッキー」”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  175. ^ “AKB48 New (Minegishi) Team 4 Created”. Melos no Michi. 24 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2021.
  176. ^ “AKB48 Holds Their 34th Single Senbatsu Janken Tournament at Nippon Budokan”. Jpopasia. 23 tháng 6 năm 2013.[liên kết hỏng]
  177. ^ “Heart Ereki”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  178. ^ “First performance of AKB48 33rd Single”. allthingsjpop.wordpress.com. 19 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  179. ^ “AKB史上最長! 珠理奈センター新曲は76字 作曲は織田哲郎が担当” (bằng tiếng Nhật). ORICON STYLE. 6 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
  180. ^ “Idol Yuko Oshima Announces Plans to Graduate From AKB48 – News”. Anime News Network. 31 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  181. ^ “Oricon 2013 Yearly Charts: Artist Total Sales”. tokyohive. 6Theory Media, LLC. 16 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  182. ^ “AKB48's latest album sells over 950,000 copies in the first week”. Tokyohive. 6Theory Media. 27 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  183. ^ “AKB48 reveals the details on their 35th single”. Tokyohive. 6Theory Media. 24 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  184. ^ “AKB48 announces the creation of 'Team 8' with a new concept”. Tokyohive. 6Theory Media. 23 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014. references Oricon “【動画】AKB「会いに行く」新チーム8結成 3月発足、8月劇場デビューへ” [Launching March 8, a "go to see" AKB48 new team, to August theater debut]. Oricon (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  185. ^ “AKBグループ大組閣祭り 2・24開催 - AKB48 - 芸能ニュース”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2021.
  186. ^ “New Team for the AKB48” (bằng tiếng Nhật). Japanized World. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  187. ^ "大人AKB"塚本さん、愛称は「まりり」 ぱるるが命名 (AKB48) ニュース-ORICON STYLE”. Oricon.co.jp. 17 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
  188. ^ 【オリコン】AKB新曲が初日売上歴代最高146.2万枚 初日ミリオンは7作目 – 芸能 – 最新ニュース一覧 – 楽天WOMAN (bằng tiếng Nhật). Woman.infoseek.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  189. ^ “「AKB48 37thシングル 選抜総選挙」開票結果はこちら” ["AKB48 37th single selection general election" vote counting result is here]. AKB48 Official Website (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2014.
  190. ^ “Kokoro no Placard”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  191. ^ a b “DOCUMENTARY of AKB48 The time has come 少女たちは、今、その背中に何を想う?”.
  192. ^ “Kibouteki Refrain”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  193. ^ “AKB48 recruiting part-timers for Y1,000 per hour”. Japan Today. 12 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  194. ^ “53 girls recruited for 'Baito AKB' + to appear in CM”. Tokyohive. 6Theory Media. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  195. ^ “AKBドラフト候補生49人決定 東京女子流・山邊の妹、バイトAKB11人も”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  196. ^ “バイトAKB最初で最後の劇場公演! ドラフト挑戦、スタッフ転向と選ぶ道は様々”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  197. ^ “Minami Takahashi to graduate from AKB48 in Dec 2015”. Japan Today. 10 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  198. ^ SBS PopAsia HQ (9 tháng 12 năm 2014). “What is it like to be the general manager of AKB48? Takahashi Minami explains in her graduation speech”. SBS PopAsia. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  199. ^ “「バトンつなげたい」たかみな卒業宣言全文”. nikkansports.com. 8 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  200. ^ “たかみな"本当に"AKB卒業発表、後任総監督に横山由依指名”. sponichi.co.jp. 8 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  201. ^ 2014年 年間音楽&映像ランキング発表 6ページ目 [2014 annual music & video rankings announced sixth page]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015. Tóm lược dễ hiểuTokyohive.
  202. ^ “Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  203. ^ “週間 CDアルバムランキング 2015年02月02日付”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2015.
  204. ^ “Green Flash”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  205. ^ “AKB48 39thシングル「Green Flash」”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  206. ^ “【オリコン】AKB48"あゆ超え"26作連続1位 前人未到20作連続ミリオンも達成”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2021.
  207. ^ “AKB48 celebrates the one-millionth audience member to their theater”. tokyohive. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  208. ^ “川栄李奈 無念の卒業...今後は女優業に全力「夢を追いかけたい」”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  209. ^ “川栄、卒業は「夢を叶えたいと思ったから」」”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  210. ^ “こじはる、武藤十夢らNYにAKB、ファン5000人集結に感動”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  211. ^ “AKB48、6年ぶりNYライブに5000人熱狂 里田まい現地報告「ものすごい熱気」”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  212. ^ 里田まいも興奮「すごい熱気」AKB・NYイベント (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  213. ^ “僕たちは戦わない(初回限定盤/Type A)”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2015.
  214. ^ “Rino Sashihara crowned amid tears and jeers at AKB election”. The Japan Times. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  215. ^ AKB48 10th anniversary year 41stシングル 選抜総選挙 (bằng tiếng Nhật). AKB48. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  216. ^ “Halloween Night”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  217. ^ a b “近藤萌恵里「びっくり」48グループ初代最速女王に - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2021.
  218. ^ “Kuchibiru ni Be My Baby”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  219. ^ “Announcement of Minami Takahashi to be Center on her final AKB48 single”. Tokyo Girls Update. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
  220. ^ “AKB48 overtakes iconic rock group to become Japan's No.1”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  221. ^ “0 to 1 no Aida”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  222. ^ “【オリコン】AKB48、10周年ベスト首位 女性グループ歴代1位の通算6作目”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  223. ^ “【AKB紅白】指原率いる白組優勝「やったー!」”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  224. ^ “高橋みなみ涙 前田敦子、優子サプライズ出演/紅白 - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  225. ^ “Kimi wa Melody”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2021.
  226. ^ "AKB48's 43rd Single "Kimi wa Melody" revealed on the final day of Request Hour 2016!". Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  227. ^ “【AKB紅白】台湾オーディション合格の馬嘉伶「ヘビロテ」1人で熱唱”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  228. ^ “Ma Chia-Ling”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  229. ^ “Tsubasa wa Iranai”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  230. ^ “AKB48『AKB48 45thシングル 選抜総選挙『最多議席数を獲得したグループ』特典の御報告につきまして』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  231. ^ “LOVE TRIP / Shiawase wo Wakenasai”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  232. ^ a b “AKB48公式サイト | AKB48グループじゃんけん大会2016”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  233. ^ Japan, Arama! (3 tháng 10 năm 2016). “Haruka Shimazaki Confirms Graduation from AKB48”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.
  234. ^ “High Tension”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  235. ^ “AKB48が上海で開催の「中日友好文化交流の旅」スタートセレモニーに登場”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2021.
  236. ^ “Thumbnail”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  237. ^ “Rino Sashihara and Morning Musume Collab on AKB48's 8th Album”. Arama! Japan. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2016.
  238. ^ “Shoot Sign”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  239. ^ “Kojima Haruna announces graduation from AKB48”. tokyohive.com. 20 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2019.
  240. ^ “Negaigoto no Mochigusare”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  241. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 Sonzai suru Riyuu”. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  242. ^ “Marriage, Graduation Announcements Overshadow Idol Rino Sashihara's 3rd AKB48 Election Win”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  243. ^ “【先ヨミ速報】AKB48『#好きなんだ』が140万枚超の売上でミリオン突破”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  244. ^ “#SukiNanda”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  245. ^ “Buồn nhất Tổng tuyển cử lần thứ 9 của AKB48: Watanabe Mayu thông báo tốt nghiệp”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  246. ^ Inc, Natasha. “AKB48「恋チュン」以降のミュージックビデオぎっしりのMV集「あの頃がいっぱい」(動画あり)”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2021.
  247. ^ Inc, Natasha. “【ライブレポート】渡辺麻友「AKB48の未来は明るい」新たな船出を飾った卒業コンサート(写真52枚)”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  248. ^ Inc, Natasha. “卒業公演終えた渡辺麻友、AKB48人生を振り返る「11年間、間違ってなかった」(写真11枚)”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  249. ^ “11-gatsu no Anklet”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  250. ^ “AKB48 50thシングル アー写&ジャケ写&MV公開!! | AKB48 KING RECORDS official website”. akb.kingrecords.co.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.[liên kết hỏng]
  251. ^ “PD48 contestants who performed in 2017 MAMA Japan”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  252. ^ a b “The Complete List of '2017 MAMA' Winners”. 중앙일보 (bằng tiếng Anh). 4 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2021.
  253. ^ “AKB48 xác nhận tham gia 'Produce 48' của Mnet, một cuộc chiến sống còn mới sắp bắt đầu!”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  254. ^ “Details on AKB48 Shuffle Team Members in late 2017”. odonsalvatore.blogspot.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2018.
  255. ^ “【紅白】AKB48まゆゆが有終の美 視聴者人気1位は「11月のアンクレット」”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oircon ME. 31 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2018.
  256. ^ “AKB48 KING RECORDS official website | AKB48 9thアルバムのタイトル&収録内容決定&ジャケット写真公開!”. web.archive.org. 19 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  257. ^ “Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake wo Shitteiru”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  258. ^ “Jabaja”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  259. ^ “AKB48、ニュー・シングル『ジャーバージャ』カップリング選抜メンバー&AKBグループ/坂道シリーズ選抜"坂道AKB"メンバー発表。ジャケ写&MV公開も - TOWER RECORDS ONLINE”. tower.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  260. ^ “Teacher Teacher”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  261. ^ “Single thứ 52 của AKB48 nhanh chóng bốc hơi hơn một triệu bản trong tuần đầu tiên”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  262. ^ “一般社団法人 日本レコード協会”. www.riaj.or.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
  263. ^ “Jurina Matsui triumphs in the 2018 AKB48 General Election | SBS PopAsia”. Sbs.com.au. 18 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2019.
  264. ^ “Sentimental Train”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  265. ^ “Dàn thí sinh Produce 48 ra mắt đẹp hút hồn, idol Nhật Bản chiếm sóng nhất”.
  266. ^ “Produce 48 khép lại, lộ diện top 12 thí sinh thắng cuộc, debut với tên IZONE”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  267. ^ “Ba thành viên AKB48G tạm dừng mọi hoạt động để tập trung cho IZ*ONE”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  268. ^ “AKB48、54thシングルセンター&選抜メンバー23名発表 宮脇咲良&矢吹奈子&本田仁美がAKB48グループ活動休止へ<初選抜3名> - モデルプレス”. モデルプレス - ライフスタイル・ファッションエンタメニュース (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  269. ^ “NO WAY MAN”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  270. ^ “Miyawaki Sakura trở thành center cho MV NO WAY MAN trước khi tạm dừng mọi hoạt động ở 48 Group”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  271. ^ “センチメンタルトレイン (Type B)”. www.melon.com (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2018.
  272. ^ “Cuộc gặp gỡ của hai nhóm nhạc đông thành viên nhất Việt Nam và Nhật Bản”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2021.
  273. ^ “チーム8が〈交通安全ベトナム「絆」駅伝2018 IN HANOI〉に出演!”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2021.
  274. ^ “横山由依「いろーんなことが」総監督退任で心境語る - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2021.
  275. ^ “『Legend of AKB48 ~NEW CHAPTER~ダイジェスト映像公開(AKB48単独コ』”. 想像上のLand's berry (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2021.
  276. ^ タイランドハイパーリンクス (29 tháng 12 năm 2018). “BNK48「NHK紅白歌合戦」出演メンバーが決定!日本人メンバー伊豆田莉奈と大久保美織も | タイランドハイパーリンクス:Thai Hyper” (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  277. ^ “AKB48 & BNK48 to perform Koi Suru Fortune Cookie at NHK Kohaku - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.
  278. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2019 in Bangkok”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  279. ^ “76 thiếu nữ của các nhóm nhạc châu Á diễn ở Thái Lan”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  280. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2019 in Shanghai”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  281. ^ “TOKYO IDOL FESTIVAL 2019”. TOKYO IDOL FESTIVAL. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021.
  282. ^ “10月19日(土)開催!〈AKB48 in Taipei 2019 〜 Are You Ready For It?〉に、チーム8から坂口渚沙、岡部麟、小栗有以、倉野尾成美が出演! - AKB48 Team 8 ニュース&レポート”. AKB48 Team 8公式サイト (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  283. ^ “AKB48 Zenkoku Tour 2019”.
  284. ^ “Lần thứ hai nhóm nhạc AKB48 tham dự giải chạy Ekiden 2019”. Tuổi Trẻ Online. 9 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  285. ^ “Các cô gái AKB48 'làm nóng' giải Việt Nam Kizuna Ekiden 2019”. Tuổi Trẻ Online. 15 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  286. ^ “AKB48 chính thức nói lời chia tay với thành viên xuất sắc nhất”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  287. ^ Inc, Natasha. “AKB48指原莉乃卒業シングルは「ジワるDAYS」IZ4648メンバーも発表”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  288. ^ “Sashihara Rino to be the center for AKB48's 55th single”. tokyohive. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  289. ^ “Jiwaru DAYS”.
  290. ^ “Kojima Mako announces Graduation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2021.
  291. ^ “小嶋真子、AKB卒業公演で「誰の心にも希望や夢ある」 最後の曲への思い”. マイナビニュース (bằng tiếng Nhật). 13 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2021.
  292. ^ “NHKの「AKB48 SHOW!」終了へ 「ショックだなぁ」「神番組だったよな」”. J-CAST ニュース (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2021.
  293. ^ “AKB48冠番組「AKBINGO!」終了へ 11年半の歴史に幕”. www.mdpr.jp (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2020.
  294. ^ “AKS松村氏、NGT騒動と総選挙開催見送りは「関係ございません」”. SANSPO.COM (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2021.
  295. ^ “Minegishi Minami bất ngờ thông báo tốt nghiệp AKB48”. Ticketgo. 9 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  296. ^ “Last 1st Generation AKB48 Idol Minami Minegishi Announces Graduation”. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2021.
  297. ^ “Sustainable”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  298. ^ “AKB48"すっぴん風"ジャケ写公開 柏木由紀「超ナチュラルです」”. ORICON NEWS. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  299. ^ “AKB48 Cafe & Shop in Akihabara Closes After 8 Years”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  300. ^ “紅白"異例"の曲目先行発表!AKBは「恋チュン 世界選抜SP」LiSAは「紅蓮華」 - スポニチ Sponichi Annex 芸能”. スポニチ Sponichi Annex (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  301. ^ “48G World Senbatsu performed Koi Suru Fortune Cookie at Kohaku Uta Gassen - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.
  302. ^ “AKB48's Japanese company announces division of management in preparation for IZ*ONE's return to promotions”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  303. ^ “Nữ thần tượng 10X rời nhóm nhạc vì lộ ảnh riêng tư”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  304. ^ “Shitsuren, Arigatou”.
  305. ^ “AKB48『AKB48「サステナブル」劇場盤発売記念 大握手会 開催延期のお詫びとお知らせ』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  306. ^ “AKS、NGT運営を新設会社Floraに事業譲渡 - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
  307. ^ “AKB48 74日ぶり無観客劇場公演 向井地美音&岡田奈々2人きりのステージに「緊張」 - スポニチ Sponichi Annex 芸能”. スポニチ Sponichi Annex (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  308. ^ “AKB48 announce OUC48 project - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2022.
  309. ^ “OUC48はAKB48の新たな一歩” [OUC48 is a new step for AKB48]. Sponichi. 16 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020.
  310. ^ “Members of AKB48 sing '365nichi no Kamihikouki' at home”. tokyohive. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  311. ^ “Fight Against Covid19, AKB48 Group To Join "ONE LOVE ASIA" Online Concert - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  312. ^ “AKBが有観客公演再開、定員250人も27人鑑賞 - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  313. ^ “Ex-AKB48 Stars Return AKB48 for COVID-19 Relief Song - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  314. ^ “AKB48 tung PV Hanareteitemo với 114 ca sĩ, fan hâm mộ gặp lại 8 thành viên đã tốt nghiệp”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  315. ^ “Hai thành viên của nhóm nhạc AKB48 mắc Covid-19”. ZingNews.vn. 15 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2021.
  316. ^ “AKB48 Takita Kayoko tests positive for coronavirus”. news.cgtn.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2021.
  317. ^ “Oya Shizuka is recovered from COVID-19 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2021.
  318. ^ “Takita Kayoko returns to team after overcoming COVID-19 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2021.
  319. ^ Inc, Natasha. “AKB48劇場15周年公演の開催延期、配信でメンバー99名参加トークイベント開催”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  320. ^ “Shiroma Miru Infected with COVID-19 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  321. ^ “AKB48柏木、峯岸ら15人が自宅待機 新型コロナ感染のNMB白間と仕事”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  322. ^ “Sponichi: COVID-19 Could Be to Blame for AKB48 Missing Out on This Year's Kōhaku Music Contest”. Anime News Network (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  323. ^ a b “Arashi takes home the 'Artist of the Year' at the 'JAPAN GOLD DISC AWARD' for the 7th time”. tokyohive. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  324. ^ “AKB48 and Oversea Groups to Hold Online Festival In June - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  325. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2021 ONLINE”.
  326. ^ “【6/27開催 AKB48 Group Asia Fes】出演メンバー変更のお知らせ”.
  327. ^ “【6/27開催 AKB48 Group Asia Fes】出演メンバー変更のお知らせ”. ameblo.jp. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  328. ^ “AKB48峯岸みなみ「私をアイドルにしてくれてありがとう」卒コンに豪華OG集結”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2021.
  329. ^ “Minegishi Minami to hold graduation live next week - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021.
  330. ^ “チーム8全国ツアー、ついに完走しました!!!”.
  331. ^ “AKB48 Tandoku Concert 2021 〜Suki Naraba, Suki da to Iou~”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  332. ^ “AKB48 to release their 58th single in September”. tokyohive. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  333. ^ “AKB48『9/29発売 AKB48 58thシングル、タイトル&選抜メンバー決定!!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  334. ^ “AKB48、新曲「根も葉もRumor」センターは岡田奈々<音楽の日2021>” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2021.
  335. ^ “AKB48が1年半ぶり新曲初披露 センターは7作ぶり岡田奈々「みんなで気合いを入れて」” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2021.
  336. ^ “AKB48 To Reveal 58th Single MV Tomorrow - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2021.
  337. ^ “AKB48テレ東新番組のタイトル決定 MCは「ひろゆき」こと西村博之氏 - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  338. ^ “(Teaser) AKB48 get a new horror movie this summer”.
  339. ^ “「AKB48 THE AUDISHOW」 チケット一般2次発売受付のご案内”.
  340. ^ “AKB48 & ANA Cooperate for Ongakusai 2021 – SI-Doitsu English” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2021.
  341. ^ “AKB48岡田奈々・岡部麟・小栗有以・本田仁美、モーニング娘。'21とのコラボに刺激 柏木由紀との本番前やりとり明かす<THE MUSIC DAY> - モデルプレス”. モデルプレス - ライフスタイル・ファッションエンタメニュース (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  342. ^ “7 nữ ca sĩ nhóm AKB48 đều mắc Covid-19”. ZingNews.vn. 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  343. ^ AKB48. “AKB48メンバーの活動に関するご報告及びイベント出演辞退と公演・コンサート中止のお知らせ”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  344. ^ AKB48. “AKB48メンバーの活動に関するご報告と 8/1開催のイベント出演に関して”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  345. ^ “Team 8 Gyoten Yurina Tests Positive For Covid-19 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.
  346. ^ Trích dẫn các thành viên nhiễm COVID-19 :
  347. ^ Trích dẫn các thành viên trở lại hoạt động:
    • “AKB48メンバーの活動に関するご報告” [Muto Orin & Suzuki Kurumi trở lại hoạt động sau khi có kết quả âm tính với COVID-19]. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba. 23 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
    • “AKB48メンバーの活動に関するご報告” [Shimoguchi Hinana và Ichikawa Manami trở lại hoạt động sau khi có kết quả âm tính với COVID-19]. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba. 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
    • “AKB48メンバーの活動に関するご報告” [Haruna Saito trở lại hoạt động sau khi có kết quả âm tính với COVID-19]. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba. 27 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
    • “AKB48メンバーの活動に関するご報告” [Taguchi Manaka, Tomu Muto và Yasuda Kana trở lại hoạt động sau khi có kết quả âm tính với COVID-19]. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba. 24 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
    • “AKB48メンバーの活動に関するご報告” [Kobayashi Ran trở lại hoạt động sau khi có kết quả âm tính với COVID-19]. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba. 28 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
    • “AKB48メンバーの活動に関するご報告” [Shimizu Maria trở lại hoạt động sau khi có kết quả âm tính với COVID-19]. AKB48 Official Website. 13 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
  348. ^ “AKB48『AKB48 新ゲームアプリ「AKB48 WORLD」の発表とティザー映像公開!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  349. ^ “AKB48!妄想まんが部字幕放送”.
  350. ^ “AKB48『9月10日 劇場公演のお申し込みについて』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2021.
  351. ^ “AKB48『9月11日 劇場公演のお申し込みについて』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2021.
  352. ^ “AKB48『9月13日〜21日の公演メンバーについて』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2021.
  353. ^ “Yokoyama Yui Announces Graduation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2021.
  354. ^ “Yokoyama Yui Graduation Concert Date Confirmed For November - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2021.
  355. ^ “Watch: Yokoyama Yui's Graduation Song Kimi ga inakunaru 12gatsu MV - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2021.
  356. ^ “AKB48 Team Shuffle, Kuranoo Narumi Appointed Team 4 Captain - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2021.
  357. ^ “AKB48 Recruit 17th Generation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2021.
  358. ^ “AKB48's Miyazaki Miho to graduate and pursue activities in South Korea”. tokyohive. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022.
  359. ^ “AKB48's Kato Rena announces graduation”. tokyohive. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022.
  360. ^ “No AKB48 Group on NHK Kouhaku Uta Gassen 2021”. Bunshun English (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  361. ^ “AKB48 Spring Concerts Including Request Hour Canceled Due To Coronavirus - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.
  362. ^ “Yamauchi Mizuki, Nagano Megumi & Oda Erina Infected With COVID - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.
  363. ^ “Honda Hitomi Appointed AKB48 59th Single's CENTER - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
  364. ^ “AKB48 Reveal 59th Single Song: Motokare desu - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2022.
  365. ^ “11 AKB48 17th Gen Idols Make Debut At AKB48 Theater Today - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2022.
  366. ^ “Chiba Erii Appointed AKB48 60th Single CENTER - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2022.
  367. ^ “AKB48 Announce 18th Gen Audition - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2022.
  368. ^ “AKB48 Announce Spring Concert 2023 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2022.
  369. ^ “AKB48 Update 61st Single doushitemo kimi ga suki da Details - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2023.
  370. ^ “AKB48 Announce 61st Single, Transferred To Universal Music - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2023.
  371. ^ “(Video) AKB48 18th Gen KKS Make Their Debut - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2023.
  372. ^ “AKB48 Abolish Team System - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2023.
  373. ^ “Oguri Yui Serves CENTER For AKB48 62nd Single - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2023.
  374. ^ “AKB48 Perform 62nd Single Song For First Time At CDTV - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2023.
  375. ^ “The Idol Kashiwagi Yuki Announced Graduating From AKB48 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2023.
  376. ^ Daily, AKB48. “AKB48's Surprise Announcement Of 19th Generation Audition - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2023.
  377. ^ Daily, AKB48. “AKB48 Announce 63rd Single, With Kashiwagi Yuki As CENTER - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
  378. ^ “AKB48 63rd Single Cover Unveiled - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2024.
  379. ^ “AKB48 Introduce 19th Gen Idols - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2024.
  380. ^ “AKB48 Confirm The Title Of 64th Single - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2024.
  381. ^ “AKB48 Announce Audition To Recruit 20th Generation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. www.jshowbiz.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  382. ^ “AKB48 10thアルバム 2024年12月25日(水)発売決定!!” [Album thứ 10 của AKB48 sẽ được phát hành vào thứ 4, ngày 25 tháng 12 năm 2024!]. Universal Music Japan (bằng tiếng Nhật). 6 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2024.
  383. ^ Joyce, Andrew; Maxwell, Kenneth. “Japan Goes Gaga Over a 92-Member Girl Group”. The Wall Street Journal.
  384. ^ “As CDs Spin On in Japan, Tower Records Rocks On”. Japan Real Time. 14 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2013.
  385. ^ “ももクロ : "音楽好き"の支持でポストAKBに急浮上? 群雄割拠のアイドルシーン” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital. 6 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2012.
  386. ^ “Oricon unveils their Yearly Sales Rankings for 2015”. aramajapan. 21 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2015.
  387. ^ “Oricon weekly (singles)”. The Natsu Style. 15 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2015.
  388. ^ Bảng xếp hạng Đĩa đơn hàng năm của Oricon (2010-2019):
  389. ^ “「恋するフォーチュンクッキー」が、有料音楽配信認定においてミリオンになったので、他のAKB48曲を含めて考察しました”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2019.
  390. ^ “2014年JOYSOUND 年間カラオケランキング発表”.
  391. ^ “年間ヒットタレント本/写真集 2011年(平成23年) ベスト10”.
  392. ^ “年間CM起用社数、女性上位はAKB独占 男性は石川遼が4連覇”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  393. ^ “AKB48 is officially the world's biggest group”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2011.
  394. ^ a b “AKB48's new Guinness World Record”.
  395. ^ “AKB48 members to appear on stamps”. Japan Today (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  396. ^ “TALK ASIA- Interview with Japanese Music Producer Yasushi Akimoto”. CNN News. 1 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2021.
  397. ^ “JAPANESE IDOL GROUP AKB48 FOUNDER YASUSHI AKIMOTO ON CNN'S TALK ASIA - Press Releases - Turner Asia”. CNN News. 26 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2021.
  398. ^ Việt Lâm (20 tháng 7 năm 2014). “AKB48 gây tranh cãi vì hình ảnh gợi dục”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2022.
  399. ^ “10 Years Later, A Defense Of Heavy Rotation by AKB48”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  400. ^ “The Truth Behind Heavy Rotation”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  401. ^ JpopAsia. “AKB48 Candy Ad Criticized for Encouraging Homosexuality”. JpopAsia (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
  402. ^ Hạ Nhiên. “Quảng cáo của nhóm ca sĩ Nhật bị chê thiếu lành mạnh”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2012.
  403. ^ Hải Lan. “Sao Nhật bị chỉ trích vì để bé trai sờ ngực”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  404. ^ Arkell, Harriet (23 tháng 1 năm 2013). “Japanese girl band star at centre of 'child porn' investigation after magazine used picture of her with boy touching her breasts”. Mail Online. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2021.
  405. ^ “Bê bối tình ái của nhóm nhạc Nhật”. ZingNews.vn. 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  406. ^ “Ca sĩ nữ Nhật Bản bị biến thành biểu tượng tình dục?”. ZingNews.vn. 7 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  407. ^ “Cựu thành viên NMB48 bị bắt gặp hẹn hò”. ZingNews.vn. 16 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  408. ^ Tokyohive (31 tháng 1 năm 2013). “Minegishi Minami demoted to Kenkyuusei + posts a video message with shaved head”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013.
  409. ^ Trích dẫn:
  410. ^ “Ca sĩ Nhật thừa nhận sống chung với bạn trai U50”. ZingNews.vn. 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  411. ^ “AKB48's Suzuki Yuka to halt her activities following scandal that she was living with a man in his 40s”. tokyohive. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  412. ^ 「文春オンライン」特集班. “AKB48鈴木優香(20)がジャニーズ風イケメンと池袋ホテルお泊まり《半同棲の40代男性とは別》”. 文春オンライン. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  413. ^ “Suzuki Yuka Apologized To Fans And Announced Graduation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2021.
  414. ^ “Japanese girl band AKB48 attacked with a saw at fan event”. The Guardian. AFP. 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  415. ^ “AKB48 members attacked by saw-wielding man”. The Japan Times. 25 tháng 5 năm 2014.
  416. ^ “AKB握手会主催のキングレコード「卑劣な犯人の行為に怒り」 100人の警備体制も説明” (bằng tiếng Nhật). asahi.com. 24 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
  417. ^ “Slasher Attacks Japan Pop Girl Group AKB48 at Fan Event”. Jakarta Globe. Reuters. 26 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2014.
  418. ^ “2 thành viên AKB48 bị fan cuồng tấn công bằng cưa”. thethaovanhoa.vn. 26 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  419. ^ 川栄、入山襲われた!AKB握手会に刃物男 (bằng tiếng Nhật). nikkansports.com. 24 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
  420. ^ Hume, By Junko Ogura and Tim (11 tháng 2 năm 2015). “Japanese man sentenced to 6 years for saw attack on AKB48 pop stars”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  421. ^ “Japan's Lack of Romance: Is It Due to Idol Culture?”. HuffPost (bằng tiếng Anh). 3 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  422. ^ “Nữ ca sĩ bị tấn công còn phải xin lỗi người hâm mộ”. Tuổi Trẻ Online. 15 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  423. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 1 năm 2019). “Ngược đời ngôi sao nhạc pop Nhật Bản xin lỗi vì... tố cáo kẻ tấn công”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  424. ^ Author, No (22 tháng 3 năm 2019). “Assaulted member of AKB48 spinoff criticizes results of AKS probe as 'lies'. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021.
  425. ^ Trích dẫn:
  426. ^ Trích dẫn:
  427. ^ Jozuka, Eriko; Yakatsuki, Yoko (16 tháng 1 năm 2019). “Why a pop idol's stand against her assault sparked outrage in Japan”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2019.
  428. ^ Japan, Arama! (14 tháng 1 năm 2019). “NGT48 director Etsuro Imamura to be replaced with a female, still no punishments for Maho Yamaguchi assault”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021.
  429. ^ “NGT48民事裁判 男性ファン2人の謝罪文全文、損害賠償は240万円”. Sankei Shinbun (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 4 năm 2020.
  430. ^ “NGT山口真帆を暴行のファングループ出禁...18日・AKBグループ「リクエストアワー」”. Sports Hochi (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 1 năm 2019.
  431. ^ “AKB48、ファン待望の名曲をチャリティーソングとして配信” (bằng tiếng Nhật). Model Press, Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  432. ^ “AKB48's Post-Quake Support Song Sells 1 Million on 1st Day”. Anime News Network. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  433. ^ “AKB48 charity efforts have raised 1.25 billion yen in donations”. Tokyograph (based on articles by Oricon and Sankei sports). 18 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2012.
  434. ^ “AKB48 to distribute another charity song for free”. tokyohive. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  435. ^ “AKB48, sister groups perform in disaster-struck Tohoku”. Japan Today (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  436. ^ “AKB48 & sister groups hold special performances at their theaters + the disaster areas”. tokyohive.com. 11 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  437. ^ Baseel, Casey (14 tháng 12 năm 2014). “Who's still buying physical media in Japan? Top 20 singles lists for the year reveal the answer”. rocketnews24.com. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2015.
  438. ^ St. Michael, Patrick (19 tháng 10 năm 2017). “AKB48 fan allegedly dumps 585 CDs on a mountain in Fukuoka”. sbs.com. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2020.
  439. ^ Morikawa, Jun (27 tháng 12 năm 2015). “Does the future of Japanese music depend on streaming services?”. japantimes.co,jp. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2020.
  440. ^ Swarts, Alan; Swarts, Alan (3 tháng 7 năm 2013). “Why Japan's Music Industry Is Booming... For Now”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  441. ^ Wakatsuki, Marian Liu,Yoko (16 tháng 6 năm 2017). “Japan votes for world's largest pop group”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
  442. ^ “AKB48 13thシングル 選抜総選”. AKB48 Official Blog / Ameblo. 13 tháng 5 năm 2009.
  443. ^ Matsutani, Minoru (1 tháng 7 năm 2013). “Voting for idols is bigger than politics”. Japan Times.
  444. ^ Trích dẫn:
  445. ^ “【第9回AKB総選挙】総投票数が過去最多338万票に ハプニング続きも記録更新”. Oricon. 17 tháng 6 năm 2017.
  446. ^ “AKB48、じゃんけん選抜シングルは「チャンスの順番」”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 4 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  447. ^ “AKB48じゃんけん選抜詳細レポ「新しいAKBの形見えた」”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 21 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  448. ^ “AKBじゃんけん優勝特典はソロデビュー”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Oricon Style. 7 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2012.
  449. ^ “Janken Tournament”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  450. ^ “AKB48 thông báo về sự kiện thường niên Request Hour”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  451. ^ “Request Hour”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  452. ^ “AKB group draft”.
  453. ^ a b “AKB48公式サイト|AKB48グループ ドラフト会議” (bằng tiếng Nhật). AKB48. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  454. ^ a b “第2回AKB48グループドラフト会議とは” (bằng tiếng Nhật). AKB48. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  455. ^ a b “AKB48第3回ドラフト会議全結果 55名が交渉権獲得<6巡まで指名/コメント> - モデルプレス”. モデルプレス - ライフスタイル・ファッションエンタメニュース (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2021.
  456. ^ “AKB総選挙の開催見送り発表 09年開始以降で初 - AKB48 : 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2021.
  457. ^ “AKB48 will not hold the 'General Senbatsu Election' this year”. tokyohive. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  458. ^ “From Akiba to L.A. with AKB48”. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2017.
  459. ^ Trích dẫn:
  460. ^ “AKB48 Group E-newspaper Forty-Eight Times will be out Friday - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  461. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 to be continued 10年後、少女たちは今の自分に何を思うのだろう?”.
  462. ^ “New People Entertainment Announces DVD Release Of AKB48 Documentary”.
  463. ^ “AKB48『AKB48ドキュメンタリー映画第2弾、公開決定!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2021.
  464. ^ “Documentary of akb48: show must go on”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2014.
  465. ^ “Documentary of akb48: no flower without rain”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2014.
  466. ^ “Japan Box Office July 12–13, 2014”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2014.
  467. ^ “存在する理由 DOCUMENTARY of AKB48”.
  468. ^ Legend of AKB48 – New Chapter (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022
  469. ^ “AKB48 group member live streaming on SHOWROOM”.
  470. ^ “AKB48 Group x Showroom”. SHOWROOM. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2020.
  471. ^ “Japanese girl group AKB48 to join HYBE's Weverse DM”. koreajoongangdaily.joins.com (bằng tiếng Anh). 25 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2023.
  472. ^ “マンガ「AKB49」はAKB48大島優子も納得の出来!?「楽屋での私のまんまだ((;゜Д゜))」” (bằng tiếng Nhật). Cinema Today. 26 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
  473. ^ “AKB48 Satsujin Jiken”.
  474. ^ “AKB0048 Idol Sci-Fi Anime's TV Ad Streamed”. Anime News Network. 20 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  475. ^ “AKB0048 next stage's 1st Promo Streamed”. Anime News Network. 12 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2015.
  476. ^ “The AKB48 Arcade Game Is Pretty Much AKB48 House Of The Dead”. Siliconera. 6 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2014.
  477. ^ “AKB48 Finally Gets An Official Music Game Is, Well, The Name Of The Game”.
  478. ^ “Japan Review Check: AKB48, Borderlands 2, Forza: Horizon”. Polygon.com. 17 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2015.
  479. ^ “Super Smash Bros. for 3DS – Japanese Commercial #4! [AKB48 Promotion Video]”. Ndukauba. 7 tháng 9 năm 2014.
  480. ^ “AKB48 team8: 読売新聞オンライン”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2021.
  481. ^ “AKB48派生ユニット「IxR(アイル)」が「SAISON CARD Digital」とコラボレーション!入会特典や先着特典などオリジナル限定アイテム多数!”. プレスリリース・ニュースリリース配信シェアNo.1|PR TIMES. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  482. ^ “AKB横山総監督、たかみな卒業直前で心境告白「実感がわかない」”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  483. ^ “☆☆奇跡のコラボレーション企画!AKB48が兵衛向陽閣のCMをリバイバル☆☆ - ☆ニュースリリース☆ | 兵衛 向陽閣 | 有馬温泉 旅館”. www.hyoe.co.jp. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  484. ^ “AKB48 teams up with Japanese Red Cross for special CM”. tokyohive. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  485. ^ “AKB大島優子らが日本代表を応援する「円陣アンバサダー」に就任”. ゲキサカ (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  486. ^ “バニラエア×AKB48チーム8で奄美群島旅! メンバーのオフ写真も毎週更新”. マイナビニュース (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  487. ^ “RBFoods TapiocaDrink IxR Special Web Store”. RBTapiocaIxR (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  488. ^ “AKB48『AKB48 メンズコスメ商品「AKBBeauty For MEN」に関するお知らせ』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  489. ^ AKB48. “ABCマートWEB-CM「ニューバランス 327 Walking Dance 篇」に出演決定!”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2021.
  490. ^ “RAVIJOUR Names AKB48 Idols As Brand Ambassadors - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2022.
  491. ^ “AKB48 Team Up With Welcia - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2023.
  492. ^ “DUMP SHOW! - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2021.
  493. ^ “AKB48『AKB歌劇団「∞・Infinity」DVD販売のお知らせ!!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2021.
  494. ^ “AKB49: Ren'ai Kinshi Jourei (Musical)”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2021.
  495. ^ “Majimuri Gakuen Loudness”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2021.
  496. ^ “AKB48 To Join The Cast of THE SHOW TIME - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2021.
  497. ^ “AKB48 Idols star in Sport Climbing Girls live-action stage - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  498. ^ “AKB48 Idols Cast In Official Shika Musical Neon Kids - 48/46 J-POP & Showbiz News”. www.jshowbiz.com. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  499. ^ “Tin buồn cho các Fan của AKB48, Tiệm Cafe AKB48 đóng cửa vào tháng 12”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.
  500. ^ AKB48. “ABOUT AKB48 THEATER”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  501. ^ “Japanese all-girl pop group AKB48 suspends Akihabara performances”. Mainichi Daily News (bằng tiếng Anh). 6 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  502. ^ “AKB48 Theater Closed Again Over COVID-19 - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2021.
  503. ^ Nguyễn Thủy (26 tháng 5 năm 2014). “Hai thành viên AKB48 bị tấn công bằng cưa sắt”. thanhnien.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2024.
  504. ^ “名古屋・幕張の握手会を延期 AKB48劇場は31日まで休館” [Postpone shake-hand events in Nagoya/Makuhari – AKB48 Theater will be closed until 31st]. nikkei.com (bằng tiếng Nhật). Nikkei Inc. 26 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2014.
  505. ^ 6月14日(土)全国握手会イベント(横浜スタジアム) 6月15日(日)・6月29日(日)パシフィコ横浜 大写真会 開催延期のお詫びとお知らせ [Apology and announcement of postponement of handshake event on Saturday, June 14, and photo shooting events on Sunday at Yokohama Stadium, June 15, and Sunday, June 29 at Pacifico Yokohama] (bằng tiếng Nhật). KING RECORDS. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  506. ^ “AKB48, Japanese pop group, cancels fan events after attack”. cbc.ca.
  507. ^ “Metal detectors installed as AKB48 theater reopens”. Japan Today (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2021.
  508. ^ Kyle (8 tháng 7 năm 2014). “Is AKB48 taking their new security measures too far?”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
  509. ^ “AKB48 Theater”.
  510. ^ “AKB48"聖地"秋葉原の現劇場で涙の千秋楽 オープンから6843日6552公演、老朽化で全面改装へ” [Nhà hát của AKB48- "Thánh địa" hiện tại ở Akihabara sau 6.843 ngày hoạt động và 6.552 buổi biểu diễn kể từ khi mở cửa sẽ được cải tạo hoàn toàn do cũ kỹ]. ORICON NEWS. 1 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2024.
  511. ^ “AKB48 17 Gen's Stage Confirmed - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.
  512. ^ “AKB48 New KKS Stage Confirms Premiere Date - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2024.
  513. ^ a b “AKB48 New Stage Name Confirmed - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  514. ^ “AKB48 13th Gen To Hold 10th Anniversary LIVE In December - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2021.
  515. ^ “AKB48 Form New Unit: SURREAL - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2022.
  516. ^ “Sashining Musume”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2021.
  517. ^ “WRD48”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2022.
  518. ^ “AKB48 13th Single Senbatsu Sousenkyo ~Kamisama ni Chikatte Gachi desu~”.
  519. ^ “AKB48 17th Single Senbatsu Sousenkyo "Kaasan ni Chikatte, Gachi Desu".
  520. ^ “AKB48 22nd Single Senbatsu Sousenkyo”.
  521. ^ “AKB48 27th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  522. ^ “AKB48 32nd Single Senbatsu Sousenkyo”.
  523. ^ “AKB48 37th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  524. ^ “AKB48 41st Single Senbatsu Sousenkyo”.
  525. ^ “AKB48 45th Single Senbatsu Sousenkyo "Bokutachi wa Dare ni Tsuiteikeba ii".
  526. ^ “AKB48 49th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  527. ^ “AKB48 53rd Single Sekai Senbatsu Sousenkyo”.
  528. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2011”.
  529. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2012”.
  530. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2013”.
  531. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2014”.
  532. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2015”.
  533. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2016”.
  534. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2017”.
  535. ^ “AKB48 19th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  536. ^ “AKB48 24th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  537. ^ “AKB48 29th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  538. ^ “AKB48 34th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  539. ^ “AKB48 Group Janken Taikai 2014 | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  540. ^ “AKB48グループじゃんけん大会2015”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  541. ^ “AKB48公式サイト | AKB48グループ ユニットじゃんけん大会2017”. AKB48公式サイト | AKB48グループ ユニットじゃんけん大会2017 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  542. ^ “AKB48 Group Unit Janken Tournament 2018 - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  543. ^ “AKB48公式サイト | 第2回AKB48グループ チーム対抗大運動会”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2021.
  544. ^ “『AKB48 e運動会〜離れて強くなったもの、は本物。〜』 AKB48総勢100名が参加するe-sportsイベントが開催決定! | JIKEICOM Team Esports” (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2021.
  545. ^ “AKB48 Group First Singing Contest - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  546. ^ “AKB48 Group Second Singing Contest - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  547. ^ “AKB48 Group Third Singing Contest - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  548. ^ “AKB48 Announce The 4th AKB48 Group Singing Contest - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2021.
  549. ^ “Okada Nana wins AKB48 4th Singing Competition”. Bunshun English (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  550. ^ “Ikeda Yura Won AKB48 Group No. 1 Singing Contest Again - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2023.
  551. ^ “AKB48 Natsu Matsuri 2014 - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  552. ^ “AmebaPigg Unit Battle - Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  553. ^ AKB48. “「AKB48 THE AUDISHOW」公式サイト”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2021.
  554. ^ “第51回日本レコード大賞” [51st Japan Record Awards]. 公益社団法人 日本作曲家協会 (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2024.
  555. ^ “2009 Mnet Asian Music Awards Winners - Mwawe Official Website”. www.mwave.me (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2022.
  556. ^ “ベストヒット歌謡祭2009受賞者&曲目一覧”. スポチャンネル +オリコンMUSIC (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  557. ^ “AKB48がグランプリを受賞! - 「第17回ボウリング・マスメディア大賞」”. マイナビニュース (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  558. ^ “第24回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.
  559. ^ “美輪も絶賛!AKB48「アイドル文化広げたい」 - スポニチ Sponichi Annex 芸能”. スポニチ Sponichi Annex (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  560. ^ “AKB48:コスプレイベントでも大人気、全3曲で会場は最高潮に”. MANTANWEB(まんたんウェブ) (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
  561. ^ Rob Schwartz (7 tháng 2 năm 2011). “Chaka Khan, Debbie Gibson Make Cameos at Billboard Japan Awards”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
  562. ^ “2010年トレンド大賞は「3Dビエラ」~DIME発表|ライフ関連ニュース|オリコン顧客満足度ランキング”. oricon (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  563. ^ “ベストヒット歌謡祭2009”. web.archive.org. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  564. ^ “Entertainment Project Design [AKB48]”. Good Design Award. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  565. ^ “『日本レコード大賞』各賞発表 最優秀アルバム賞はいきものがかり”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.
  566. ^ “Japan Gold Disc Award 2011”.
  567. ^ “たけしが人気コンビにお墨付き! ピースは「最先端」 ブラマヨは「保険」”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  568. ^ “麻里子さま、前田敦子と大島優子を馬に例えると...?”. cinemacafe.net (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  569. ^ 株式会社インプレス (1 tháng 3 năm 2011). “第16回AMDアワード優秀賞に、Ustream、Android、もしドラ、AKB48など9作品”. INTERNET Watch (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  570. ^ “日本有線大賞:大賞候補にAKB48 新人賞にマルモリコンビを選出 - MANTANWEB(まんたんウェブ)”. archive.is. 10 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  571. ^ “AKB48, Avril Lavigne Win Big at Billboard Japan Music Awards”. Billboard. 6 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  572. ^ “日本レコード大賞:各賞決定 優秀作品賞はAKB48、KARAら 特別賞に「マルモリ」 - MANTANWEB(まんたんウェブ)”. archive.is. 10 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  573. ^ “ドラマソング賞 受賞結果 1位:フライングゲット、AKB48 | 第70回 - ザテレビジョンドラマアカデミー賞”. ザテレビジョン (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  574. ^ “AKB48がアーティスト・オブ・ザ・イヤー含む4冠を2年連続で達成│Daily News│Billboard JAPAN” (bằng tiếng Nhật). Billboard Japan. 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2012.
  575. ^ “AKB48 / Awarded "Asia's Most Popular Group" in Beijing”. SYNC MUSIC JAPAN (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  576. ^ “Winners from the '2012 Mnet Asian Music Awards'. allkpop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.
  577. ^ “2012年『日本有線大賞』は氷川きよし 2年ぶり史上最多7回目の大賞”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  578. ^ “第26回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  579. ^ Jeff Benjamin (9 tháng 1 năm 2014). “AKB48, Morning Musume Win Big at Billboard Japan Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
  580. ^ “第27回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  581. ^ “Nominees & winners for the '55th Japan Record Awards' announced”. tokyohive. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2021.
  582. ^ Inc, Natasha. “「日本有線大賞」候補にAKB48、きゃりー、JUJU、西野ら”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  583. ^ “Nominees & winners for the '56th Japan Record Awards' announced”. tokyohive. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  584. ^ “第28回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  585. ^ “Billboard Japan Music Awards 2014 winners”.
  586. ^ “『日本有線大賞』テレビ放送ラストステージ 氷川きよし、AKB、乃木坂ら有終の美を飾る”. Real Sound|リアルサウンド (bằng tiếng Nhật). 6 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
  587. ^ “AKB48 receives 'Best Dressed Eyes Awards' for the 2nd time”. tokyohive. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  588. ^ “「第18回SPACE SHOWER MUSIC VIDEO AWARDS」にて特別賞ほか受賞!!”. AOI Pro. Inc. (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  589. ^ Ryusenkai (19 tháng 11 năm 2015). “Winners and Nominees for the 57th Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2021.
  590. ^ “第29回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  591. ^ “2015 MAMA WINNERS”. MAMA Awards (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2024.
  592. ^ “第三届音悦V榜年度盛典 - 音悦台”. web.archive.org. 22 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  593. ^ “【ビルボードジャパン年間アーティストランキング 2016】大きな潮目の変化を告げた2016年”.
  594. ^ “Arashi takes 'Artist of the Year' at 'THE JAPAN GOLD DISC AWARD' again”.
  595. ^ Ryusenkai (17 tháng 11 năm 2016). “Winners and Nominees for the 58th Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2021.
  596. ^ “「第11回大正琴音楽大賞」授与式を行いました”. 琴伝流からのお知らせ | 琴伝流大正琴 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  597. ^ “ドラマソング賞 受賞結果 1位:365日の紙飛行機、AKB48 | 第88回 - ザテレビジョンドラマアカデミー賞”. ザテレビジョン (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  598. ^ “AKB48/JKT48 インドネシアでアワード受賞「2016年がJKT48にとって良い年になるよう努力していきます」 | Daily News” [AKB48/JKT48 nhận giải thưởng tại Indonesia: "Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để năm 2016 trở thành một năm thành công của JKT48"]. Billboard JAPAN (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2024.
  599. ^ “12月21日,又一波成员将抵达北京! | 自由微信 | FreeWeChat”. freewechat.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  600. ^ “31st Japan Gold Disc Awards - generasia”. www.generasia.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  601. ^ “AKB48『365日の紙飛行機』が大正琴音楽大賞 "恋チュン"とは違う世界でスタンダードに (2017年2月9日)”. エキサイトニュース (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  602. ^ “AKB48が最優秀グループ賞受賞 会場で可愛いダンスを羅志祥にレクチャー--人民網日本語版--人民日報”. j.people.com.cn. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.
  603. ^ Ryusenkai (15 tháng 11 năm 2017). “Winners and Nominees for the 59th Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  604. ^ “The Winners of The Japan Gold Disc Award 2018 Announced”.
  605. ^ “60th Japan Record Awards winners and nominees announced”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  606. ^ Ryusenkai (15 tháng 11 năm 2019). “Winners and Nominees for the 61st Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  607. ^ “Namie Amuro, BTS, AKB48, & more win at 33rd "Japan Gold Disc Award".
  608. ^ “34th Japan Gold Disc Awards”.
  609. ^ Ryusenkai (19 tháng 11 năm 2020). “Winners and Nominees for the 62nd Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  610. ^ “AKB48 58th Single And Nogizaka46 27th Single Nominated For Japan Record Awards Grand Prix - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2021.
  611. ^ “Da-iCE Wins Grand Prix Of The The 63rd Japan Record Awards - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2021.
  612. ^ “AKB48グループが保持するギネス世界記録の数々”. ギネス世界記録 (bằng tiếng Nhật). 10 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.
  613. ^ Hebblethwaite, Phil (27 tháng 1 năm 2017). “10 astonishing record-breakers in global music - BBC Music”. BBC News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024. In 2010, when AKB48 were first recognised for being the world's largest pop group, they had a paltry 48 members, as their name suggests.
  614. ^ “AKB48がギネス世界記録に認定!「世界一人数の多いポップグループ」” [AKB48 được Kỷ lục Guinness Thế giới chứng nhận là "Nhóm nhạc pop lớn nhất thế giới"]. ORICON NEWS. 4 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
  615. ^ “Most TV commercials for the same product (24 hrs) - national/Free-to-air”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  616. ^ “AKB48 becomes best-selling singles female artist ever in Japan - AJW by The Asahi Shimbun”. Asahi. 21 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
  617. ^ “AKB48's latest single 'Heart Ereki' sells over a million copies in one day”. tokyohive. ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  618. ^ “AKB48 score their 16th million-selling single”. tokyohive. ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  619. ^ “【ビルボード】AKB48『願いごとの持ち腐れ』が250万枚突破、シングル・セールス・チャート首位獲得”. Billboard JAPAN. 5 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2017.
  620. ^ “AKB48の61stシングル”. Universal Music Japan. 27 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2023.
  621. ^ “King Records Official Site Give Me Five! profile” (bằng tiếng Nhật). King Records. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2012. Truy cập 7 tháng 5 năm 2012.
  622. ^ “AKB48さいたま初日公演で東京ドーム公演開催発表”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập 25 tháng 3 năm 2012.
  623. ^ “SKE松井珠理奈、NMB渡辺美優紀がAKB48に期間限定加入”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập 25 tháng 3 năm 2012.
  624. ^ “SKE48 profile”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập 7 tháng 5 năm 2012.
  625. ^ “AKB48がR-18、大人相手の深夜ライブ - 芸能ニュース”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  626. ^ “NMB48、来年元日デビュー公演決定!大阪baseよしもと跡地に専門劇場オープン”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  627. ^ “AKB48『ついに九州・福岡に上陸 『HKT48』始動!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021.
  628. ^ “AKB48 Idol Group to Spawn JKT48 Spinoff in Indonesia - Interest - Anime News Network”. web.archive.org. 7 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  629. ^ 自由時報電子報 (10 tháng 6 năm 2016). “正版變山寨!中國SNH48竟遭AKB48官方除名 - 自由娛樂”. 自由時報電子報. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  630. ^ “AKB48渡边麻友:30岁想挑战女侦探角色”. 新浪娱乐. 16 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2018.
  631. ^ "AKB48公式ライバル"乃木坂46結成 一般公募でメンバー決定” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập 22 tháng 8 năm 2011.
  632. ^ “NGT48、劇場オープン3ヶ月延期 来年1月10日に” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. 16 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  633. ^ AKB48、来夏「STU48」誕生 瀬戸内7県舞台の「船上劇場」 (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. 10 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  634. ^ 『TPE48』プロジェクト発足! (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2011.
  635. ^ “New AKB48 sister groups to be formed in Manila, Bangkok and Taipei”. japantoday.com. ngày 28 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2017.
  636. ^ “オリコンミュージックストア”. オリコンミュージックストア. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.
  637. ^ “AKB48 to launch sister group in Chiang Mai”. tokyohive. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  638. ^ “AKB48 Announces New International Sister Group MUM48, Based in India”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.
  639. ^ Japan, Arama! (19 tháng 6 năm 2019). “AKB48 announce Indian sister groups DEL48 & MUB48”. ARAMA! JAPAN. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
  640. ^ N, Haris R. “DEL48 Mungkin Dibubarkan, Inilah Penjelasan dari Pihak YKBK48 Entertainment - Overseas Idol” (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  641. ^ “DEL48 & MUB48 Announce Closure - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  642. ^ Băng Châu (19 tháng 7 năm 2019). “SGO48 - Nhóm nhạc nữ đông thành viên nhất Việt Nam chính thức hoạt động”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2024.
  643. ^ Thùy Linh (18 tháng 11 năm 2018). “Nhóm nhạc 29 thành viên ở Việt Nam hoạt động ra sao?”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  644. ^ Hoàng Dung. “Nhóm nhạc 27 thành viên tan rã”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.
  645. ^ Daily, AKB48. “AKB48 Launch New Overseas Sister Group KLP48 In Kuala Lumpur - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2024.
  646. ^ Seow, Serene. “Malaysia-based KLP48 is the latest sister group of popular Japanese idol group AKB48”. CNA Lifestyle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2024.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]