Bước tới nội dung

John Gillespie Magee Jr.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
John Gillespie Magee, Jr.
Sinh9.6.1922
Thượng Hải, Trung Quốc
Mất11.12.1941 (19 tuổi)
Tai nạn máy bay trên không phận Lincolnshire, Anh

John Gillespie Magee, Jr. (9.6.1922 – 11.12.1941)[1][2][3] là một phi côngnhà thơ người Mỹ [4] đã bị tử nạn do va chạm máy báy trên không phận Lincolnshire, Anh trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã phục vụ trong Không lực Hoàng gia Canada, trước khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến. Ông rất nổi tiếng về bài thơ High Flight (Chuyến bay cao).

Thời niên thiếu

[sửa | sửa mã nguồn]
Sonnet to Rupert Brooke
: "We laid him in a cool and shadowed grove
One evening in the dreamy scent of thyme
Where leaves were green, and whispered high above —
A grave as humble as it was sublime;
There, dreaming in the fading deeps of light —
The hands that thrilled to touch a woman's hair;
Brown eyes, that loved the Day, and looked on Night,
A soul that found at last its answered Prayer...
There daylight, as a dust, slips through the trees.
And drifting, gilds the fern around his grave —
Where even now, perhaps, the evening breeze
Steals shyly past the tomb of him who gave
New sight to blinded eyes; who sometimes wept —
A short time dearly loved; and after, — slept."

John Gillespie Magee sinh tại Thượng Hải, Trung Quốc. Cha ông là người Mỹ, còn mẹ là người Anh, cả hai đều là nhà truyền giáo của Anh giáo[2][3]. Cha ông, John Magee Senior, xuất thân từ một gia đình khá giả và có thế lực ở Pittsburgh, Pennsylvania. Magee Senior trở thành mục sư của Giáo hội Tân giáo Hoa Kỳ (Episcopal Church in the United States of America) và được gửi sang truyền giáo ở Trung Quốc. Tại đây, ông đã gặp và kết hôn với Faith Emmeline Backhouse, đến từ Helmingham, Suffolk, Anh - một thành viên của Church Missionary Society. Hai ông bà kết hôn năm 1921, sinh ra Magee Jr. ngày 9.6.1922, người con cả trong số 4 anh em.

Magee Jr. bắt đầu học ở một trường của Mỹ tại Nam Kinh từ năm 1929. Năm 1931 Magee Jr. cùng với mẹ trở về Anh, chàng theo học trường nội trú dành cho học sinh nam St. Clare ở Walmer, Kent.

Từ năm 1935 tới năm 1939 Magee Jr. học ở trường Rugby School. Chàng đã phát triển năng khiếu thơ khi học trường này và đã đoạt một giải thưởng thơ của trường năm 1938. Chàng rất xúc động về bản danh sách những học trò trường Rugby hy sinh vì tổ quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong danh sách này có nhà thơ Rupert Brooke (1887–1915), người mà Magee rất ngưỡng mộ. Brooke đã từng đoạt giải thơ của trường này 34 năm trước Magee. Bài thơ đoạt giải thưởng của Magee đề cập tới việc mai táng Brooke vào lúc 11 giờ đêm trong một bãi cây olive trên đảo Skyros của Hy Lạp.

Khi học ở trường Rugby, Magee đã gặp và yêu Elinor Lyon, con gái của thầy hiệu trưởng P. H. B. Lyon. Elinor đã trở thành nguồn thi hứng cho nhiều bài thơ của Magee[5]. Mặc dù tình yêu của chàng không được đáp lại, chàng vẫn giữ tình bạn với Elinor và gia đình cô.

Magee đã sang thăm Hoa Kỳ năm 1939. Do Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chàng không thể trở về trường Rugby để học nốt năm cuối, nên thay vào đó chàng đã vào học ở trường Avon Old Farms School tại Avon, Connecticut[6]. Tháng 7 năm 1940, Magee được cấp một học bổng vào học Đại học Yale, nhưng chàng không ghi danh theo học mà chọn đăng ký vào Không lực Hoàng gia Canada trong tháng 10 cùng năm.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Magee Jr. gia nhập Không lực Hoàng gia Canada tháng 10 năm 1940 và được huấn luyện bay ở "Trường Huấn luyện bay cơ bản số 9" tọa lạc ở Sân bay St. Catharines, Ontario, sau đó là "Trường Huấn luyện bay phục vụ" (Service Flying Training School) số 2 ở RCAF Station Uplands (Ottawa). Magee đã đậu bằng phi công trong tháng 6 năm 1941.

Ngay sau kỳ thi tốt nghiệp, Magee được thăng cấp Pilot Officer (sĩ quan phi công), và được gửi sang Anh. Chàng được đưa vào học ở Operational Training Unit (Đơn vị Huấn luyện tác chiến) số 53 tại RAF Llandow, Wales. Sau khi tốt nghiệp, chàng được phân công về No. 412 Squadron RCAF (Phi đội Vận tải số 412 của Không quân Hoàng gia Anh),[1] đóng ở RAF Digby (sân bay Digby cũ của Không lực Hoàng gia Anh) ngày 30.6.1941 và trở thành phi công lái máy bay Spitfire.

Từ trần

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngôi mộ của Magee

Magee bị tử nạn ở tuổi 19, khi lái máy bay Spitfire bí số VZ-H, số thứ tự AD291. Chàng cất cánh cùng với các thành viên khác của Phi đội 412 từ căn cứ RAF Wellingore (gần Navenby & RAF Digby, cách căn cứ RAF Cranwell khoảng 3 dặm về phía tây bắc), nơi ngày nay đã chuyển thành đất nông nghiệp. Máy bay Spitfire của chàng đã va chạm trên không với một máy bay huấn luyện Airspeed Oxford cất cánh từ Cranwell, do Ernest Aubrey Griffin lái. Hai máy bay đụng nhau ngay dưới đám mây cách mặt đất khoảng 1.400 feet vào lúc 11:30, trên không phận thôn Roxholme, nằm giữa căn cứ Cranwell và căn cứ RAF Digby, ở Lincolnshire[2].

Tại cuộc điều tra sau đó, một nông dân đã làm chứng rằng ông đã nhìn thấy viên phi công lái máy bay Spitfire cố tìm cách đẩy lùi vòm kính che buồng lái máy bay về phía sau để nhảy ra ngoài[2]. Viên phi công đã đứng lên để nhảy ra, nhưng máy bay đã quá gần mặt đất nên chiếc dù đã không thể bung ra, và chàng bị tử nạn[2][3]. Cả Griffin - người lái máy bay huấn luyện Airspeed Oxford - cũng bị chết.[7]

Magee được mai táng tại Nghĩa trang Thánh giá (Holy Cross Cemetery) Scopwick ở Lincolnshire, Anh vào lúc 2:30 giờ chiều ngày thứ bẩy 13.12.1941[2][3]. Trên mộ, người ta đã khắc câu đầu và câu cuối bài thơ High Flight của chàng:

"Oh! I have slipped the surly bonds of Earth…
…Put out my hand, and touched the face of God."

Ít lâu sau khi qua đời, Hermann Hagedorn đã viết quyển tiểu sử của Magee nhan đề Sunward I've Climbed, The Story of John Magee, Poet and Soldier, 1922–1941, xuất bản năm 1942.

Bài thơ High Flight

[sửa | sửa mã nguồn]
High Flight
:

 "Oh! I have slipped the surly bonds of Earth
And danced the skies on laughter-silvered wings;
Sunward I’ve climbed, and joined the tumbling mirth
of sun-split clouds, — and done a hundred things
You have not dreamed of — wheeled and soared and swung
High in the sunlit silence. Hov’ring there,
I’ve chased the shouting wind along, and flung
My eager craft through footless halls of air....

Up, up the long, delirious, burning blue
I’ve topped the wind-swept heights with easy grace.
Where never lark, or even eagle flew —
And, while with silent, lifting mind I've trod
The high untrespassed sanctity of space,
- Put out my hand, and touched the face of God."

Sau khi qua đời, Magee trở nên nổi tiếng về bài thơ High Flight theo thể sonnet, mà chàng bắt đầu làm ngày 18.8.1941, khi đồn trú tại Đơn vị Huấn luyện tác chiến số 53 ở Căn cứ RAF Llandow, xứ Wales, chỉ mấy tháng trước khi qua đời. Trong chuyến bay thứ 7 của mình trên máy bay Supermarine Spitfire, chàng đã bay cao tới 33.000 feet. Khi đang tiếp tục bay lên cao, chàng đã chợt nhớ tới những lời mà chàng đã đọc trong một bài thơ khác — "To touch the face of God." (Chạm tới dung nhan Thiên Chúa) – nên đã hoàn tất bài thơ này ngay sau khi hạ cánh.

Dường như, người đầu tiên đọc bài thơ này của Magee trong cùng ngày ở nhà ăn sĩ quan là viên sĩ quan phi công Michael Le Bas, bạn của chàng (sau này trở thành Air Vice-Marshal (tương đương thiếu tướng Không Quân), chỉ huy No. 1 Group RAF[8]).

Magee đã chép bài thơ này vào mặt sau của một trang thư gửi cho cha mẹ. Cha của chàng - lúc đó làm mục sư phó của Nhà thờ thánh Gioan của Giáo hội Tân giáo ở Washington, DC. – đã in lại bài thơ này trong các ấn phẩm nhà thờ. Bài thơ được phổ biến rộng rãi nhờ những nỗ lực của Archibald MacLeish, lúc đó là quản thủ Thư viện Quốc hội Mỹ. Ông đã đưa bài thơ này vào trong một cuộc triển lãm những bài thơ được gọi là "Đức tin và Tự do" tại Thư viện Quốc hội Mỹ vào tháng 2 năm 1942. Bản sao của bản thảo bài thơ này hiện vẫn còn lưu ở Thư viện Quốc hội Mỹ.

Nguồn thi hứng

[sửa | sửa mã nguồn]

Những từ chót trong bài thơ High Flight — "And touched the face of God" (và chạm tới dung nhan Thiên Chúa)— cũng có thể tìm thấy trong một bài thơ của Cuthbert Hicks, xuất bản trước đó 3 năm trong tuyển tập Icarus: An Anthology of the Poetry of Flight. Hai câu chót trong bài thơ The Blind Man Flies của Cuthbert Hicks như sau:

For I have danced the streets of heaven,
And touched the face of God.

Tuyển tập nói trên cũng có bài thơ New World của G. W. M. Dunn, trong đó có câu "on laughter-silvered wings". Dunn cũng viết "the lifting mind", một câu khác mà Magee dùng trong bài High Flight, nhắc tới câu "the shouting of the air", so với sâu, "chased the shouting wind" của Magee. Một câu khác của Magee, "The high untrespassed sanctity of space", gần giống với câu "Across the unpierced sanctity of space" trong bài thơ Dominion over Air trong tuyển tập, được in trước đây trong RAF College Journal.

Việc sử dụng bài thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
Tổng thống Mỹ Ronald Reagan nói chuyện với quốc dân sau vụ thảm họa tàu con thoi Challenger

Trong tháng 4 và tháng 5 năm 1942, các ngôi sao Hollywood như Laurel and Hardy, Cary Grant, Bing Crosby, và Bob Hope đã tham gia chuyến Hollywood Victory Caravan[9], chuyến đi khắp nước Mỹ với sứ mạng huy động dân mua trái phiếu chiến tranh của chính phủ Mỹ. Nữ diễn viên nổi tiếng Merle Oberon đã ngâm bài thơ High Flight trong các show trình diễn trong chuyến đi nói trên[10]. Trong buổi trình diễn của đoàn ở Loew's Capitol Theatre tại Washington, D.C. ngày 30.4.1942 trước khi ngâm bài thơ High Flight, Oberon đã cho biết có sự hiện diện của ông bố và người em trai Christopher Magee của Magee Jr.

Bài thơ High Flight được các phi công và các nhà du hành vũ trụ yêu thích. Đó là bài thơ chính thức của Không lực Hoàng gia Canada và của Không quân Hoàng gia Anh, và cũng được các sinh viên sĩ quan khóa 4 của Học viện Không quân Hoa Kỳ đọc thuộc lòng, nơi bài thơ có thể được xem trên màn hình hiển thị ở "Cadet Field House"[11]. Những câu trích dẫn từ bài thơ này xuất hiện trên nhiều tấm bia mộ ở Nghĩa trang quốc gia Arlington[12]. Bài thơ này được hiển thị trên các bảng trong Nhà bảo tàng Chiến tranh CanadaOttawa, Nhà bảo tàng Không quân Quốc gia CanadaTrenton, Ontario. Bài thơ này cũng là chủ đề của một màn hình hiển thị thường xuyên trong Nhà bảo tàng Quốc gia của Không quân Hoa KỳDayton, Ohio[13]. Tướng Robert Lee Scott, Jr. cũng đã đưa bài thơ này vào quyển God is My Co-Pilot của ông.

Phi hành gia Michael Collins đã mang theo một thẻ mục lục có đánh máy bài thơ này trên chuyến bay phi thuyền Gemini 10 của mình, và cũng đưa bài thơ này vào quyển tự truyện Carrying The Fire của ông. Cựu giám đốc kiểm soát các chuyến bay của NASA Gene Kranz đã trích dẫn câu đầu của bài thơ trong quyển Failure Is Not An Option của ông. Tổng thống Ronald Reagan đã dùng một phần bài High Flight trong diễn văn trước quốc dân do Peggy Noonan viết, sau vụ Thảm họa tàu con thoi Challenger ngày 28.1.1986.[14]

Các chuyển thể nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Miklós Rózsa là người đầu tiên phổ nhạc bài thơ High Flight cho giọng tenor năm 1942. Bản này được xuất bản trong tập Five Songs của ông năm 1974. Nhà soạn nhạc Bill Pursell đã soạn một bản cải biên bài thơ với lời kể cho Ban nhạc của Không quân Hoa Kỳ, đã được phát sóng trên show phát thanh cuối thập niên 1940. Nhiều ca khúc và tác phẩm giao hưởng được soạn dựa trên bài thơ của Magee, trong đó có bản phổ nhạc năm 2008 của Bob Chilcott, được ban nhạc King's Singers trình diễn lần đầu ngày 1.5.2008.[15]

Bài thơ này đã được nhiều nhà soạn nhạc phổ nhạc, trong đó có John Denver trong album It's About Time năm 1983 của ông và nhà soạn nhạc Christopher Marshall, mà bản nhạc được trình diễn lần đầu bởi "The Orlando Chorale" với nhạc sĩ chơi kèn Saxophone George Weremchuk (Orlando, Florida) trong tháng 3 năm 2009, dưới sự điều khiển của Gregory Ruffer. Buổi trình diễn đầu tiên bản nhạc phổ lời mang tên "Even Such Is Time", từ bài Requiem của Gabriel Fauré, với những bản văn phi phụng vụ thêm vào – trong đó có bài High Flight - được trinh diễn bởi "Nantwich Choral Society", dưới sự điều khiển của John Naylor ngày thứ bẩy 26.3.2011 tại Nhà thờ Đức Bà Nantwich, Cheshire. Nhạc phổ do Andrew Mildinhall - cựu nhạc sĩ chơi đại phong cầm của nhà thờ - viết, và ông đã đệm đàn cho ban "Northern Concordia Orchestra" trong buổi trình diễn.

Nhà soạn nhạc người Mỹ James Curnow đã được Ban nhạc "Graduates Association of Tenri High School" ở Nara, Nhật Bản đặt viết một bài cho concert band nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 50 của Hiệp hội. Bài này có tên là "Where Never Lark or Eagle Flew" với phụ đề "dựa trên bài thơ của John Gillespie Magee, Jr.". Năm 2012, nhà soạn nhạc người Úc Daniel Walker đã được North Sydney Boys High School đặt sáng tác một bản nhạc nhân dịp lễ kỷ niệm bách chu niên của trường. Bản nhạc mang tên 'Through Footless Halls of Air', lời lấy từ bài thơ High Flight, được viết cho ban hợp xướng và dàn khí nhạc giao hưởng.

Những sử dụng khác trên phương tiện truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều khán giả truyền hình Mỹ đã được giới thiệu bài thơ High Flight khi một số đài truyền hình kết thúc (và cũng đôi khi bắt đầu) chương trình trong ngày bằng những phim ngắn dựa trên bài thơ này. Đài truyền hình KCRASacramento, California thỉnh thoảng sử dụng phim kết thúc buổi phát hình thể hiện lời đọc bài thơ này ở đoạn phim Không quân Hoa Kỳ.[16]

Các ví dụ khác về việc sử dụng bài thơ High Flight trong phim và chương trình truyền hình, trong đó có:

  • Loạt truyện tranh hài được ưa chuộng Bloom County, phát hành ngày 8.7.1984 đã sử dụng bài thơ này để làm sáng tỏ những thất vọng bị ràng buộc với Trái Đất của Opus, một con chim lội nước không bay được[17].
  • Một tập trong loạt phim tài liệu khảo cổ Time Team của Anh mô tả việc khai quật một máy bay Spitfire bị rơi ở Pháp, có tên bài thơ này ở cuối danh mục người và tài liệu dùng làm phim.
  • Tập áp chót "Daybreak" của loạt phim truyền hình Mỹ Battlestar Galactica, có diễn giải bài thơ này[18].
  • Trong phim For the Moment năm 1993, có cảnh nhân vật Lachlan Curry (do Russell Crowe đóng), đọc bài thơ này.
  • Phim khoa học giả tưởng Slipstream năm 1989, thường sử dụng bài thơ này, nhất là 2 diễn viên Mark Hamill (vai Will Tasker) và Bob Peck (vai Byron).
  • Trong phim The Snow Walker, diễn viên James Cromwell (đóng vai Walter "Shep" Shepherd) có đọc bài thơ này.
  • Bìa đĩa hát thứ hai Flight Inspired Music của phi công kiêm nhà soạn nhạc Max Conrad có in bài thơ này.
  • Quyển Return With Honor của Scott O'Grady có in bản sao đầy đủ bài thơ này.

Bài thơ Per Ardua

[sửa | sửa mã nguồn]
Per Ardua
:

 (To those who gave their lives to England during the Battle of
Britain and left such a shining example to us who follow,
these lines are dedicated.)

They that have climbed the white mists of the morning;
They that have soared, before the world's awake,
To herald up their foeman to them, scorning
The thin dawn's rest their weary folk might take;
Some that have left other mouths to tell the story
Of high, blue battle, quite young limbs that bled,
How they had thundered up the clouds to glory,
Or fallen to an English field stained red.
Because my faltering feet would fail I find them
Laughing beside me, steadying the hand
That seeks their deadly courage –
Yet behind them
The cold light dies in that once brilliant Land....
Do these, who help the quickened pulse run slowly,
Whose stern, remembered image cools the brow,
Till the far dawn of Victory, know only
Night's darkness, and Valhalla's silence now?

Một thời gian ngắn sau hoạt động bay chiến đấu đầu tiên ngày 08.11.1941, Magee đã gửi về gia đình một phần bài thơ khác, nói rằng đó là "một món đồ lặt vặt mà có thể cha mẹ quan tâm". Bài thơ Per Ardua có lẽ là bài thơ cuối cùng mà Magee đã viết. Có một số sửa chữa trong bài thơ, do Magee làm, cho thấy là bài thơ này có lẽ đã chưa hoàn thành khi chàng gửi nó. Per ardua ad astra ("Through adversity to the stars") là phương châm của một số Lực lượng Không quân trong Khối Thịnh vượng chung, chẳng hạn như Không quân Hoàng gia Anh, Không lực Hoàng gia Úc, Không lực Hoàng gia New ZealandKhông lực Hoàng gia Canada. Bài thơ này được sử dụng lần đầu vào năm 1912 bởi Royal Flying Corps (Đoàn bay Hoàng gia) mới được thành lập.

Tham khảo và Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Government of Canada (2007). Battle of Britain – Pilot and Aircrew Manual – Ceremony 2007. Ottawa: Government of Canada.
  2. ^ a b c d e f “RAF Digby – John Gillespie Magee Jr”. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2008.
  3. ^ a b c d “High Flight Poem – John Gillespie Magee Jr”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2008.
  4. ^ Fighter pilot poet "BBC", ngày 23 tháng 2 năm 2007
  5. ^ Sunward I've Climbed. Hermann Hagedorn, The Macmillan Company, New York, 1942. (In this biography, Elinor was referred to as "Diana.")
  6. ^ Pilot Officer John Gillespie Magee, Jr. "macla.c.uk"
  7. ^ CWGC record for Griffin
  8. ^ http://www.rafweb.org/Biographies/LeBas_MH.htm
  9. ^ chuyến đi 3 tuần lễ khắp nước Mỹ bằng xe lửa của các tài tử Hollywood, dừng ở nhiều trạm để biểu diễn và cổ vũ người dân mua trái phiếu chiến tranh do chính phủ phát hành
  10. ^ Margaret Herrick Library - Merle Oberon papers - Subject files 4-f.16
  11. ^ Air Force Academy Cadet Chorale singing "High Flight".
  12. ^ Use of "High Flight" at Arlington National Cemetery.
  13. ^ Exhibit on "High Flight" at National Museum of the USAF.
  14. ^ Reagan, Ronald; Noonan, Peggy (ngày 28 tháng 1 năm 1986). “Address to the nation on the Challenger disaster”. Ronald Reagan Presidential Library Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
  15. ^ BBC – Press Office – Network Radio Programme Information Week 19 Tuesday ngày 6 tháng 5 năm 2008 at www.bbc.co.uk
  16. ^ An example of a "High Flight"/TV sign-off film trên YouTube
  17. ^ “Bloom County by Berkeley Breathed, ngày 8 tháng 7 năm 1984 Via @GoComics”. GoComics. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
  18. ^ Ronald Reagan Presidential Library, Address to the nation on the Challenger disaster. Lưu trữ 2012-02-19 tại Wayback Machine Retrieved ngày 25 tháng 3 năm 2013
Sách
  • The Complete Works of John Magee, The Pilot Poet, including a short biography by Stephen Garnett. Cheltenham, Gloucestershire: This England Books, March 1989.
  • Icarus: An anthology of the poetry of flight. Macmillan, London, 1938.
  • Sunward I've Climbed. Hermann Hagedorn, The Macmillan Company, New York, 1942.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]