Abraham
Abraham | |
---|---|
אַבְרָהָם | |
Hiến tế Isaac (1638) bởi Rembrandt | |
Sinh | Ur Kaśdim, Chaldea |
Mất | 175 tuổi Hebron, Canaan (hiện tại Bờ Tây, Palestine) |
Nơi an nghỉ | Machpelah,[1] Canaan |
Nổi tiếng vì | Tổ phụ, Người cha của đức tin |
Tôn giáo | Do Thái giáo Kitô giáo Hồi giáo |
Phối ngẫu | Sarah Hagar Keturah |
Con cái | |
Cha mẹ | Terah |
Abraham (phiên âm Áp-ra-ham; Hê-brơ: אַבְרָהָם, Tiêu chuẩn Avraham Ashkenazi Avrohom hay Avruhom Tibrơ ʾAḇrāhām; Ảrập: ابراهيم, Ibrāhīm; Ge'ez: አብርሃም, ʾAbrəham), theo Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, là tổ phụ của người Do Thái và người Ả Rập. Abraham được Thiên Chúa kêu gọi rời bỏ quê hương ở thành Ur để đến vùng đất mới Canaan. Hành động này được xem là sự chấp nhận một giao ước với Thiên Chúa: tôn thờ Yahweh là Thiên Chúa duy nhất của vũ trụ, và nhận lãnh phước hạnh dư dật của Thiên Chúa cho đến đời đời. Cuộc đời của Abraham được ký thuật trong chương 11 – 15 của Sách Sáng Thế trong Cựu Ước.
Tên ban đầu của ông là Abram (Hebrew: אַבְרָם, Tiêu chuẩn: Avram Tibrơ ʾAḇrām) nghĩa là "cha cao quý" hoặc "người cha được tôn kính". Về sau ông được Chúa đổi tên thành Abraham, nghĩa là "cha của nhiều dân tộc".[2] Do vị trí đặc biệt của Abraham trong lịch sử, niềm tin và sách thánh của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo mà ba tôn giáo này thường được gọi chung là "các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham". Trong kinh Torah và Qur’an, Abraham được miêu tả là vị tổ phụ được Thiên Chúa chúc phúc.[3] Tín hữu Do Thái giáo gọi ông là Avraham Avinu, nghĩa là "Abraham, Cha chúng ta". Thiên Chúa dành cho Abraham một lời hứa đặc biệt, ấy là bởi ông mà các dân tộc trong thế gian được chúc phúc;[4] theo đức tin Ki-tô giáo, lời hứa này được ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Ki-tô. Đối với người Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, Abraham là tổ phụ của dân Israel qua Isaac, con trai ông.[5] Riêng đối với người Hồi giáo, Abraham là một tiên tri của Hồi giáo và là tổ phụ của Muhammad qua Ishmael, một người con trai khác của Abraham.
Sách chữ Nôm tiếng Việt soạn vào thế kỷ 17 gọi Abraham là Ra Ham.[6]
Trong Kinh Torah (Cựu Ước)
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc và tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]Terah là hậu duệ đời thứ chín của Noah và là cha của Abram, Nahor, Haran và Sarai. Gia đình này sinh sống ở vùng Ur xứ sở của người Khaldis, phía bắc vùng Mesopotamia – nay là đông nam Thổ Nhĩ Kỳ. Haran đã qua đời tại quê hương. Abram kết hôn với người em gái cùng cha khác mẹ là Sarai. Sau này Terah cùng con là Abram, Sarai và cháu trai là Lot, con của Haran, khởi hành đến xứ Canaan. Họ đã định cư tại Harran một khoảng thời gian, tại nơi này Terah qua đời ở tuổi 205.
Thiên Chúa kêu gọi Abraham đi đến "xứ mà ta sẽ chỉ cho", và hứa ban phước cho ông và làm cho dòng dõi ông trở nên một dân tộc vĩ đại (khi đó Abraham không có con). Abram rời Haran cũng vợ là Sarai, cháu trai là Lot cùng thuộc hạ và của cải, lúc này ông đã 75 tuổi. Tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa, Abram đi xuống Shechem, tại cây dẻ bộp[7] ông nhận lãnh lời hứa mới "Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này". Sau khi "lập một bàn thờ cho Chúa, là Đấng đã hiện đến cùng người", Abram đi đến một địa điểm ở giữa Bethel và Ai, tại đây ông lập một bàn thờ cho Thiên Chúa và cầu khẩn danh Ngài.[8]
Abram di chuyển loanh quanh trong vùng cho đến khi xảy ra tranh chấp giữa tôi tớ của ông và tôi tớ của Lot. Abram khuyên Lot nên phân rẽ khỏi ông để tránh cãi lẫy nhau, và dành cho Lot quyền ưu tiên chọn lựa đồng cỏ cho bầy chiên. Lot chọn cánh đồng màu mỡ phía đông Sông Jordan; ngay sau đó, Abram nhận lãnh thêm lời hứa từ Yahweh, ông dời trại xuống địa điểm có lùm cây dẻ bộp ở Mamre thuộc Hebron, tại đây ông lập thêm một bàn thờ cho Yahweh.
Sarai và Pharaoh
[sửa | sửa mã nguồn]Khi một nạn đói nghiêm trọng đang hoành hành vùng Canaan, Abram và Lot đã đưa gia đình đến lánh nạn ở Ai Cập. Trên đường đi, vì sợ người Ai Cập sẽ giết mình, Abram đã bảo Sarai hãy nói rằng mình là em gái của Abram. Tuy nhiên khi tới Ai Cập, những quần thần của Pharaoh đã ca ngợi vẻ đẹp của Sarai trước mặt Pharaoh. Sau đó Sarai bị tiến cung, còn Abram thì được Pharaoh thưởng với "nhiều chiên, bò, lừa đựa, lừa cái, lạc đà, tôi trai và tớ gái". Thiên Chúa đã trừng phạt Pharaoh cùng gia đình ông phải chịu nhiều tai họa bệnh dịch. Pharaoh đã tìm hiểu nguyên nhân và phát hiện Sarai là một người phụ nữ đã có chồng, ông ra lệnh Abram và Sarai rời khỏi Ai Cập.
Abram và Lot bị chia cắt
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi bị trục xuất khỏi Ai Cập và sống một thời gian ở vùng Negev, Abram và Lot trở về khu vực Bethel và Ai. Tại đây, hai đàn gia súc lớn của Abram và Lot đã dùng chung một cánh đồng chăn thả, gây xung đột giữa những người chăn nuôi của mỗi người. Xung đột giữa những người chăn nuôi ngày càng trở nên phiền phức, đến nỗi Abram đã đề xuất cho Lot lựa chọn một khu vực riêng biệt, hoặc bên trái hoặc bên phải để tránh xung đột giữa hai người. Lot đã quyết định di chuyển về phía Đông, vào vùng đồng bằng Jordan, nơi đất đai tươi tốt trải dài tới vùng Zoara và ông định cư trong các thành phố thuộc vùng đồng bằng gần Sodom. Trong khi đó, Abram chọn di chuyển về phía Nam, đến Hebron và định cư ở vùng đồng bằng Mamre, đây cũng là nơi ông xây dựng một bàn thờ khác cho Thiên Chúa.
Sodom và Gomorrah
[sửa | sửa mã nguồn]Trong cuộc nổi dậy chống lại Elam của thành phố Sodom và Gomorrah ven sông Jordan, Lot cùng toàn bộ gia đình đã bị quân xâm lược Elamite bắt làm tù binh. Vào thời điểm Quân Elamite đến thu thập chiến lợi phẩm sau khi đã đánh bại quân đội của vua Sodom, Lot và gia đình định cư ở ngoại ô Vương quốc Sodom. Điều này khiến họ trở thành mục tiêu dễ thấy.
Một người bị quân Elamite bắt đã trốn ra được và đến báo cho Abram biết sự việc. Sau khi nhận được tin này, Abram ngay lập tức thu thập 318 người hầu binh và đi về hướng phía Bắc theo dấu quân Elamite. Khi đuổi kịp quân Elamite ở Dan, Abram đã lập kế hoạch chia đội quân của mình thành nhiều đơn vị và tiến hành một cuộc đột kích vào ban đêm. Không chỉ giải cứu được những người bị bắt, binh lính của Abram còn truy đuổi và giết chết vua Elamite là Chedorlaomer tại Hobah, ngay phía Bắc của Damascus. Ông đã giải cứu Lot cùng gia đình và của cải, cũng như thu hồi toàn bộ của cải mà Sodom bị lấy mất.
Khi Abram trở về, vua Sodom đến gặp ông ở thung lũng Shaveh, "thung lũng của vua". Ngoài ra, Melchizedek, vua Salem (Jerusalem), một linh mục của El Elyon, mang ra bánh mì và rượu cùng lời chúc phúc tới cho Abram và Thiên Chúa. Abram sau đó đã tặng Melchizedek một phần mười của tất cả tài sản. Sau đó, vua Sodom đề nghị cho Abram giữ lại toàn bộ tài sản để ông đem chia cho người của ông. Tuy nhiên, Abram từ chối nhận bất cứ thứ gì ngoài phần chia cho các đồng đội của mình.
Giao ước Abraham
[sửa | sửa mã nguồn]Trong một lần nhìn thấy ảo ảnh, Abram lại nghe thấy giọng của Thiên Chúa và lặp lại lời hứa về đất đai và dòng dõi con cháu đông như vô số những vì sao. Abram và Chúa đã tổ chức một nghi lễ:
“Ði kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.”
Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ
...
Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Ðức Chúa lập giao ước với ông Abram như sau:
“Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến Sông Cả, tức sông Euphrates. Đất của người Kenites, Kenizzites, Kadmonites, Hittites, Perizzites, Rephaites, Amorites, Canaanites, Girgashites và Jebusites."
Hagar
[sửa | sửa mã nguồn]Abram và Sarai sau 10 năm sống ở Canaan vẫn chưa có người con nào. Sarai sau đó đã đề nghị Hagar, một nô lệ người Ai Cập, đến hầu hạ Abram với hy vọng rằng Hagar sẽ sinh cho ông một người con trai.
Nhưng khi có thai, Hagar bắt đầu khi thường bà chủ Sarai của mình là người đàn bà hiếm muộn. Sarai đã trả thù bằng cách ngược đãi Hagar đến mức bà phải bỏ trốn vào sa mạc. Trên đường đến Shur, một sứ thần của Thiên Chúa đã bắt gặp Hagar gần một suối nước trong sa mạc và khuyên nhủ Hagar hãy quay về với Abram cùng lời hứa sẽ làm cho dòng dõi của bà đông đến nỗi không thể nào đếm xuể. Bà được yêu cầu đặt tên cho con trai mình là Ishmael. Hagar sau đó gọi Thiên Chúa là El-roi (nghĩa là "Thiên Chúa thấy tôi"). Từ đó, nguồn nước nơi sự gặp gỡ này diễn ra được gọi là Beer-lahai-roi, vị trí nằm ở giữa Kadesh và Bered.
Hagar đã nghe lời sứ thần và trờ về, bà sinh cho Abram một đứa con trai khi ông 86 tuổi, đặt tên là Ishmael. Về sau, Hagar và Ishmael đã vĩnh viễn rời bỏ khỏi nhà của Abram.
Sarah
[sửa | sửa mã nguồn]Mười ba năm sau, khi Abram 99 tuổi, Thiên Chúa đã đặt cho Abram một cái tên mới: "Abraham" – "Cha của vô số dân tộc". Thiên Chúa và Abraham đã lập giao ước:
"...Ta sẽ cho ngươi sinh ra nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi. Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ðây sẽ là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Canaan, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.”
Trong đó, cắt bao quy đầu được coi là dấu hiệu của giao ước này. Mọi nam giới thuộc dòng dõi của Abraham, kể cả gia nô của dòng dõi Abraham đều phải chịu cắt bao quy đầu.
Thiên Chúa đã đặt cho Sarai một cái tên mới là "Sarah", đồng thời ban phước cho bà và nói với Abraham: "Ta sẽ ban cho người một người con trai từ Sarah". Vào năm 100 tuổi, Abraham được Sarah hạ sinh cho một người con trai và đặt tên là Issac.
Hiến tế Isaac
[sửa | sửa mã nguồn]Vâng theo mệnh lệnh Thiên Chúa, Abraham dâng con trai mình Isaac làm sinh tế tại xứ Moriah,[9] song một thiên sứ hiện ra ngăn cản người vì Chúa chỉ muốn thử thách đức tin của Abraham, ông giết một con cừu đực tìm thấy tại nơi ấy để làm sinh tế thay thế cho Isaac.[10]
Như là phần thưởng cho lòng tuân phục, Abraham lại nhận lãnh lời hứa dòng dõi ông sẽ "nhiều như sao trên trời, đông như cát bờ biển" và hưởng lấy sự phú cường[11] Rồi thì ông quay về Beersheba. Sự kiện dâng Isaac làm sinh tế là một trong những hành động đạo đức khó khăn và đầy thách thức nhất đã được ghi lại trong Kinh Thánh. Theo Josephus, lúc ấy Isaac 25 tuổi trong khi các hiền nhân Talmud cho rằng Isaac đã 37. Trong cả hai trường hợp, Isaac cũng là một người đã trưởng thành, đủ sức ngăn cản hành động của Abraham khi ấy đã 125 hoặc 137 tuổi.
Đến đây câu chuyện được ký thuật trong Cựu Ước tập chú vào Isaac. Abraham dành toàn bộ gia sản cho "người con trai duy nhất"[12] Sarah chết trong tuổi già, được an táng tại Hang đá Machpelah gần Hebron mà Abraham đã mua từ Ephron người Hittite[13] Về sau Abraham cũng an nghỉ tại đây.[14] Sau nhiều thế kỷ, ngôi mộ của Abraham trở thành một địa điểm hành hương của người Hồi giáo với một ngôi đền Hồi giáo được xây dựng trong địa điểm này.
Hình tượng Abraham
[sửa | sửa mã nguồn]Abraham được xem là tổ phụ của dân tộc Do Thái, con trai ông, Isaac, sinh Jacob, và từ Jacob (được đổi tên thành Israel) sản sinh Mười hai Chi phái. Thiên Chúa đã "thử thách đức tin" Abraham nhiều lần, quan trọng nhất là lần Chúa đòi hỏi ông phải dâng con trai Isaac làm sinh tế. Thiên Chúa hứa ban xứ Isreal cho dòng dõi ông, và đây là lần đầu tiên có lời hứa ban xứ sở Israel cho dân Do Thái. Do Thái giáo miêu tả những đặc điểm của mỗi tổ phụ. Tính cách nổi bật của Abraham là lòng nhân ái. Vì lẽ đó, Do Thái giáo nhìn xem lòng nhân ái là tính cách cố hữu của dân tộc Do Thái.
Kinh Thánh miêu tả Abraham là một người giàu có, quyền thế và đạo hạnh, nhưng cũng mang trên mình những khiếm khuyết của con người chẳng hạn như khi lâm vào những tình huống khó khăn ông thường lo lắng và phạm sai lầm, đôi khi thiếu ngay thẳng và cũng có lúc sống như một người chồng vô tâm. Song Abraham là nhân vật trung tâm của sách Sáng thế, ở đây chân dung của ông được phác họa như là một người yêu dấu của Thiên Chúa không ai sánh bằng. Cuộc sống của những thế hệ sản sinh từ Abraham được dùng làm chất liệu để thể hiện cung cách Thiên Chúa định hình thế giới cũng như phương cách Ngài thiết lập lãnh thổ và các mối quan hệ giữa các dân tộc.
Là cha của Isaac và Ishmael, Abraham được xem là tổ phụ của dân Israel và các dân tộc lân cận. Abraham là cha của Ishmael, mười hai con trai của Ishmael về sau trở thành những ông hoàng của sa mạc (nổi bật nhất là Nebaioth và Kedar), cùng với Midian, Sheba và các bộ tộc Ả Rập khác.[15] Những ký thuật trong Sáng thế ký cho thấy dòng dõi của Isaac bị bao vây bởi các dân tộc anh em, thường là thù địch với nhau.
Những sách khác trong Kinh Thánh miêu tả một tình yêu đặc biệt Thiên Chúa dành cho Abraham. Ông thường được gọi là bạn của Thiên Chúa, hoặc chính Thiên Chúa gọi ông, "Abraham bạn ta".[16]
Tân Ước
[sửa | sửa mã nguồn]Abraham có vai trò đặc biệt trong Tân Ước, ở đây ông được tôn vinh là anh hùng đức tin.[17] Sứ đồ Phao-lô xem ông là hình mẫu cho giáo lý cứu rỗi bởi đức tin, là tổ phụ của Chúa Cơ Đốc (tức là Đấng Messiah),[18] và khẳng định rằng mọi người có đức tin đều là hậu duệ của Abraham.[19]
Các tác giả Tân Ước ghi lại rằng Chúa Giê-xu đã nhắc đến Abraham nhằm hậu thuẫn cho niềm tin vào sự sống lại của người chết, "Còn về những người chết được sống lại, thì trong sách Môi-se có chép lời Thiên Chúa phán cùng người trong bụi gai rằng: Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob, các ngươi há chưa đọc đến sao? Ngài chẳng phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống! Thật các ngươi lầm to." (Phúc âm Mark 12: 26-27). Tân Ước cũng xem Abraham là người thuận phục Thiên Chúa, hành động dâng con trai Isaac làm sinh tế được xem là đỉnh cao của đức tin trọn vẹn vào Thiên Chúa. "Bởi đức tin, Abraham dâng Isaac trong khi bị thử thách: người là kẻ nhận lãnh lời hứa, dâng con một mình, là về con đó mà Thiên Chúa có phán rằng: Ấy bởi trong Isaac mà ngươi sẽ có một dòng dõi lấy tên ngươi mà kêu. Người tự nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền khiến kẻ chết sống lại; cũng giống như từ trong kẻ chết mà người lại được con mình" (Hebrews 11: 17-19). Theo quan điểm truyền thống của Cơ Đốc giáo, lời hứa quan trọng nhất Thiên Chúa dành cho Abraham được ký thuật trong Sáng thế ký 12. 3, "Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước." được ứng nghiệm qua dòng dõi của Abraham, ấy là mọi dân tộc trên đất sẽ được chúc phước. Song, Giăng Báp-tít dạy rằng nếu chỉ đơn giản là hậu duệ của Abraham theo huyết thống thì không được bảo đảm cho sự cứu rỗi.[20] Như vậy, theo đức tin của tín hữu Cơ Đốc, lời hứa trong Sáng thế ký được ứng nghiệm trong Chúa Giê-xu, hậu duệ của Abraham. Cũng từ lời hứa này mà Cơ Đốc giáo rộng mở cho mọi người thuộc mọi chủng tộc, chứ không chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do Thái.
Hồi giáo
[sửa | sửa mã nguồn]Abraham, hoặc Ibrahim trong tiếng Ả Rập, có vị trí rất quan trọng đối với Hồi giáo như là một nhà tiên tri và là cha của Ishamel và Isaac. Người Hồi giáo xem Ishmael, con trai đầu lòng của Abraham, là tổ phụ của người Ả Rập, và Isaac là tổ phụ của người Do Thái. Người Hồi giáo tôn kính Abraham như là một trong những tiên tri quan trọng nhất của Hồi giáo, thường gọi ông là Khalil Ullah, "Bạn của Thiên Chúa". Abraham được xem là một Hanif, nghĩa là người khám phá độc thần giáo.
Người Hồi giáo tin rằng sinh thời Abraham đã xây cất Kaaba, đền thánh tại Mecca, Kaaba được xây dựng theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Họ cũng tin rằng dấu chân của Abraham vẫn còn lưu lại trên một tảng đá trong ngôi đền. Những cuộc hành hương (hajj) được tổ chức hằng năm, một trong những trụ cột của niềm tin Hồi giáo, thu hút hàng triệu người Hồi giáo đi theo bước chân Abraham, Hagar và Ishmael trong cuộc hành trình đến thánh địa Kaaba.
Tôn giáo khởi nguồn từ Abraham
[sửa | sửa mã nguồn]Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham được miêu tả trong Kinh Torah, Kinh Thánh và Kinh Qur'an, với đặc điểm chung là độc thần luận, bao gồm: Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, chiếm gần một nửa số người theo tôn giáo trên thế giới. Một số tôn giáo khác có liên hệ với truyền thống Do Thái có thể được nhìn nhận có khởi nguồn từ Abraham như Bahá'í, Druze giáo, Mandae giáo, Sikh giáo và phong trào Rastafari.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Sáng thế ký 25:9
- ^ "Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc." – Sách Sáng thế 17:5
- ^ "Phần Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc." - Sách Sáng Thế 17:3-4
- ^ "Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc." – Sách Sáng Thế 12:2-3
- ^
- "Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp với tư cách là Thiên Chúa Toàn Năng, nhưng Ta đã không cho họ biết danh của Ta là ĐỨC CHÚA. Ta lại còn lập giao ước của Ta với họ để ban cho họ đất Ca-na-an, là đất khách quê người, nơi họ sống như những khách lạ." - Sách Xuất Hành 6:3,4
- "Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời." - Sách Xuất Hành 32:13. 12
- ^ Lữ-y Đoan. Sấm-truyền ca Genesia. Montréal: Tập san Y sĩ, 2000.
- ^ *"Họ bèn đưa cho Jacob các tượng thần ngoại bang của mình, và các vòng đeo nơi tai; rồi người chôn mấy vật đó dưới gốc cây dẻ bộp, gần thành Shechem." - Sáng thế ký 35:4
- "Đoạn, Joshua chép các lời này trong sách luật pháp của Thiên Chúa. Kế đó, người lấy một hòn đá lớn dựng tại đó ở dưới cây dẻ bộp gần nơi thánh của Đức Giê-hô-va." - Giô-suê 24:26
- "Hết thảy người Shechem nhóm hiệp với cả họ Mi-lô, đi đến cây dẻ bộp bia đá ở Shechem, mà tôn A-bi-mê-léc làm vua." - Các Quan xét 9.6
- ^ Sáng thế ký 12: 1-9
- ^ "Thiên Chúa muốn thử Abraham... Ngài phán rằng: Hãy bắt đứa con duy nhất ngươi yêu dấu, là Isaac, và đi đến xứ Moriah, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu..." - Sáng thế ký 22: 2
- ^ "Thiên sứ phán rằng: Đừng tra tay vào mình con trẻ và chớ làm chi hại đến nó; vì bây giờ ta biết rằng ngươi thật kính sợ Thiên Chúa, bởi cớ không tiếc với ta con ngươi, tức con duy nhất của ngươi". – Sáng thế ký 22: 12
- ^ Sáng Thế ký 22
- ^ "Abraham cho Isaac hết thảy gia tài mình; còn cho các con dòng thứ những tiền của; rồi, khi còn sống, người sai họ qua đông phương mà ở, cách xa con dòng chánh, là Isaac."
- ^ Sáng thế ký 23
- ^ Sáng thế ký 25: 7-10
- ^ Sáng thế ký 25: 1-4
- ^
- "Hỡi Thiên Chúa chúng tôi! Ngài há chẳng đã đuổi dân ở trong xứ này khỏi trước mặt dân Israel của Ngài, mà ban xứ ấy cho dòng dõi Abraham, là bạn hữu Chúa, làm sản nghiệp đời đời sao?" – 2Sử ký 20: 7
- "Nhưng, hỡi Israel, ngươi là tôi tớ ta, còn ngươi, Jacob, là kẻ ta đã chọn, dòng giống của Abraham, bạn ta" – Isaiah 41: 8
- "Vậy, được ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Abraham tin Thiên Chúa, và điều đó kể là công bình cho người; và người được gọi là bạn của Thiên Chúa" – Gia-cơ 2: 32
- ^ "Bởi đức tin Abraham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: người đi mà không biết mình đi đâu. Bởi đức tin, người kiều ng�� trong xứ đã hứa cho mình, như trên đất ngoại quốc, ở trong các trại, cũng như Isaac và Jacob, là kẻ đồng kế tự một lời hứa với người. Vì người chờ đợi một thành có nền vững chắc, mà Thiên Chúa đã xây cất và sáng lập" – Hebrews 11: 8-10
- ^ "Vả, các lời hứa đã được phán cho Abraham và cho dòng dõi người. Không nói: Và cho các dòng dõi ngươi, như chỉ về nhiều người; nhưng nói: Và cho dòng dõi ngươi, như chỉ về một người mà thôi, tức là Chúa Cơ Đốc" – Galatians 3: 16
- ^ "Như Abraham tin Thiên Chúa, thì đã kể là công bình cho người, vậy anh em hãy nhận biết rằng những kẻ có đức tin là con cháu thật của Abraham" – Galatians 3: 6-7
- ^ "Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Abraham là tổ phụ chúng ta; vì ta nói cho các ngươi rằng Thiên Chúa có thể khiến đá này sinh ra con cái cho Abraham được" – Matthews 3: 8-9
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Boadt, Lawrence (1984). Reading the Old Testament: An Introduction. New York: Paulist Press. ISBN 0-8091-2631-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Ginzberg, Louis (2003). Harriet Szold tr (biên tập). Legends of the Jews, Volume 1. Philadelphia: Jewish Publication Society. ISBN 0-8276-0709-1. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2010.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Gunkel, Hermann (1997) [1901]. Biddle, Mark E. tr (biên tập). Genesis. Macon, GA: Mercer University Press. ISBN 0-86554-517-0.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Levenson, Jon D. (2004). “The Conversion of Abraham to Judaism, Christianity and Islam”. Trong Hindy Najman, Judith Newman (biên tập). The Idea of Biblical Interpretation: Essays in Honor of James L. Kugel. Leiden: Koningklijke Brill. ISBN 90-04-13630-4.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Rosenberg, David M. (2006). Abraham: the first historical biography. New York: Basic Books. ISBN 0-465-07094-9.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Silberman, Neil Asher; Finkelstein, Israel (2001). The Bible unearthed: archaeology's new vision of ancient Israel and the origin of its sacred texts. New York: Free Press. ISBN 0-684-86912-8.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Thompson, Thomas (2002). The Historicity of the Patriarchal Narratives: The Quest for the Historical Abraham. Valley Forge, Pa: Trinity Press International. ISBN 1-56338-389-6.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Van Seters, John (1975). Abraham in history and tradition. New Haven, Conn: Yale University Press. ISBN 0-300-01792-8.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Vermes, Geza (1973). Scripture and tradition in Judaism. Haggadic studies. Leiden: Brill. ISBN 90-04-07096-6.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Whybray, Roger Norman (1987). The making of the Pentateuch: a methodological study. Sheffield: JSOT Press. ISBN 1-85075-063-7.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Tôn giáo khởi nguồn từ Abraham
- Derrida, Jacques (2002). Anidjar, Gil (biên tập). Acts of Religion. New York & London: Routledge. ISBN 9780415924016.
- Assmann, Jan (1998). Moses the Egyptian: the memory of Egypt in western monotheism. Harvard University Press. ISBN 9780674587397.
- Barnett, Paul (2002). Jesus & the Rise of Early Christianity: A History of New Testament Times. InterVarsity Press. ISBN 9780830826995.
- Blasi, Anthony J.; Turcotte, Paul-André; Duhaime, Jean (2002). Handbook of early Christianity: social science approaches. Rowman Altamira. ISBN 9780759100152.
- de Perceval, Armand-Pierre Caussin (1847). Calcutta review - Essai sur l'histoire des Arabes avant l'islamisme, pendant l'époque de Mahomet, et jusqu'à la réduction de toutes les tribus sous la loi musulmane (bằng tiếng Pháp). Paris: Didot. OCLC 431247004.
- Dodds, Adam (2009). “The Abrahamic Faiths? Continuity and Discontinuity in Christian and Islamic Doctrine”. Evangelical Quarterly. 81 (3): 230–253.
- Firestone, Reuven (2001). Children of Abraham: an introduction to Judaism for Muslims. American Jewish Committee, Harriet and Robert Heilbrunn Institute For International Interreligious Understanding. Hoboken, NJ: KTAV. ISBN 9780881257205.
- Freedman H. (trans.), and Simon, Maurice (ed.), Genesis Rabbah, Land of Israel, 5th Century. Reprinted in, e.g., Midrash Rabbah: Genesis, Volume II, London: The Soncino Press, 1983. ISBN 0-900689-38-2.
- Guggenheimer, Heinrich W., Seder Olam: The rabbinic view of Biblical chronology, (trans., & ed.), Jason Aronson, Northvale NJ, 1998
- Kritzeck, James (1965). Sons of Abraham: Jews, Christians, and Moslems. Helicon.
- Greenstreet, Wendy (2006). Integrating spirituality in health and social care. Oxford; Seattle, WA: Radcliffe. ISBN 9781857756463.
- Johansson, Warren (1990). “Abrahamic Religions” (PDF). Trong Dynes, Wayne R. (biên tập). Encyclopedia of Homosexuality. New York: Garland. ISBN 978-0824065447. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2010.
- Massignon, Louis, "Les trois prières d'Abraham, père di tuos les croyants", Dieu Vivant, 13, (1949) 20-23.
- Masumian, Farnaz (1995). Life After Death: A study of the afterlife in world religions. Oxford: Oneworld Publications. ISBN 1-85168-074-8.
- Reid, Barbara E., Choosing the Better Part?: Women in the Gospel of Luke, Liturgical Press, 1996
- Scherman, Nosson, (ed.), Tanakh, Vol.I, The Torah, (Stone edition), Mesorah Publications, Ltd., New York, 2001
- Smith, Jonathan Z. (1998). “Religion, Religions, Religious”. Trong Taylor, Mark C. (biên tập). Critical Terms for Religious Studies. University of Chicago Press. tr. 269–284. ISBN 978-0226791562.
- Smith, Peter (2008). An Introduction to the Baha'i Faith. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 9780521862516.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Tư liệu liên quan tới Abraham (Biblical figure) tại Wikimedia Commons
- Abraham tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- The Jewish History Resource Center Project of the Dinur Center for Research in Jewish History, The Hebrew University of Jerusalem
- Early Wars of Israel Lưu trữ 2007-05-18 tại Wayback Machine Abraham's Wars & others
- Abraham in all three Abrahamic faiths Lưu trữ 2005-12-21 tại Wayback Machine
- Abraham's sacrifice: an Islamic perspective
- GospelTruth—God's promises to Abraham according to Christian belief
- Biblical Archeology Lưu trữ 2019-09-21 tại Wayback Machine—Bible-related article about Abraham
- The Legacy of Abraham Lưu trữ 2003-02-08 tại Wayback Machine—Time magazine cover story
- Abraham's vision in the Qur'an
- Millat-e-Ibrahim: Prophet Abraham's Way Lưu trữ 2006-11-02 tại Archive.today by ClearVision Pakistan Lưu trữ 2018-11-13 tại Wayback Machine
- Children of Abraham Lưu trữ 2007-02-11 tại Wayback Machine—episode of the weekly Minnesota Public Radio show Speaking of Faith
- Abraham by Rob Bradshaw An extensive dictionary-style article.
- A.R. Millard & D.J. Wiseman, eds., Essays on the Patriarchal Narratives. Leicester: IVP, 1980. Hbk. ISBN 0-85111-743-0.
- The Abraham Cycle: Psychological Archetypes of Genesis
- Biblaridion magazine: Lưu trữ 2007-03-02 tại Wayback Machine The Covenant of Genesis 15
- Biblaridion magazine: Lưu trữ 2007-10-06 tại Wayback Machine The Wells of Salvation: The theology of water conflict in the patriarchal narratives
- Biblaridion magazine: Lưu trữ 2007-08-11 tại Wayback Machine The sister-wife motif in the patriarchal narratives
- "Abraham" Lưu trữ 2012-10-04 tại Wayback Machine in Christian Iconography