Ban Chiêu (tiếng Trung: 班昭, bính âm: Bān Zhāo, Wade–Giles: Pan1 Chao1, Việt bính: Baan1 Ciu1, Yale Quảng Đông: Bāan Chīu, 45 - 117), còn có tên Ban Cơ (班姬), tiểu tựHuệ Ban (惠班), hay được gọi Tào đại cô (曹大姑), là một nữ học giả trứ danh thời Đông Hán. Bà xuất thân thế gia vọng tộc họ Ban, bà thông tuệ chữ nghĩa, lễ nghi, được xem là Nữ sử gia đầu tiên của Trung Quốc. Chính bà đã cùng anh trai Ban Cố viết nên Hán thư, một trong Nhị thập tứ sử nổi tiếng của Trung Quốc.

Ban Chiêu
班昭
Tên chữBan Cơ, Huệ Ban
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
45
Nơi sinh
Đông Hán
Rửa tội
Mất
Ngày mất
116
Nơi mất
nhà Hán
An nghỉ
Giới tínhnữ
Gia quyến
Thân phụ
Ban Bưu
Anh chị em
Ban Cố, Ban Siêu
Phối ngẫu
Cao Shishu
Học vấn
Học sinh
Đặng Tuy
Nghề nghiệpnhà sử học, nhà triết học, nhà văn, chính khách, nhà thơ, người uyên bác, thủ thư, instructor
Quốc tịchĐông Hán
Tác phẩmLessons for Women
Truy phong
Thụy hiệu
Tước hiệu
Tước vị
Chức vị
Thần vị
Nơi thờ tự
Minh họa Ban Chiêu trong cuốn Liệt nữ đồ (列女圖).

Vào thời Hán Hòa Đế, bà được mời vào cung dạy học cho Hoàng hậu, Quý nhân và các cung nữ. Sau khi Hòa Hi Đặng Thái hậu lâm triều tiến hành nhiếp chính, bà từng nhiều lần bàn luận chính sự cùng Thái hậu. Tác phẩm của bà hiện không còn được giữ lại nhiều, chỉ còn lưu lại Đông Chinh phú (东征赋) và Nữ giới (女诫), đều có ảnh hưởng đến văn học các đời sau.

Thân thế

sửa

Ban Chiêu sinh ra ở Phù Phong, An Lăng, nay là khu vực gần Hàm Dương, Thiểm Tây, xuất thân trong một gia đình Nho giáo nổi tiếng, rất có tài hoa về văn học vào thời Đông Hán, hậu duệ của Lệnh doãn nước SởTử Văn. Tổ phụ là Ban Trĩ (班稚), là một người con trai của Ban Huống (班况) và là anh của Ban Tiệp dư của Hán Thành Đế.

Cha bà là Ban Bưu (班彪), là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc thời bấy giờ, từng nhậm Huyện lệnh. Ngoài ra bà có một người anh là Ban Cố, nhà sử gia nổi tiếng, cùng Ban Bưu làm cơ sở gầy dựng nên Hán thư trứ danh. Bà còn có một người anh khác là Đại tướng quân Ban Siêu, có công lao trấn giữ vùng Tây Vực chống lại Hung Nô thời Hán. Cha anh bà có học thức cao nên bản thân bà cũng không hề thua kém. Xuất thân trong một gia tộc có truyền thống văn chương, Ban Chiêu tự nhiên cũng thừa hưởng nền tảng của gia tộc.

Năm 14 tuổi, Ban Chiêu gả cho Tào Thế Thúc (曹世叔). Tổ ấm của đôi vợ chồng trẻ này rất hạnh phúc, nhưng chỉ được 10 năm, Tào Thế Thức qua đời, Ban Chiêu một lòng thủ tiết thờ chồng, bà chuyên tâm tích cực nghiên cứu, chăm lo, viết nên các tác phẩm sử sách để đời. Bà cùng chồng chỉ có một người con trai duy nhất tên Tào Thành (曹成).

Tào Đại cô

sửa

Tài khiếu viết văn của Ban Chiêu trước hết thể hiện trong quá trình giúp anh trai Ban Cố viết cuốn Tiền Hán Thư, đây là cuốn sử đoạn đại mang thể loại ký truyện đầu tiên của Trung Quốc, có địa vị ngang hàng với cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán trên lịch sử.

Ban Bưu là người đầu tiên bắt tay vào việc viết bộ sử này, sau khi cha qua đời, anh trai Ban Chiêu tên là Ban Cố tiếp tục hoàn thành việc này. Tuy nhiên, chỉ đến phần "Thiên văn chí" (天文志) thì Ban Cố bị tống giam và chết, do có can hệ với Đậu Hiến, anh trưởng của Chương Đức Đậu hoàng hậu. Khi cùng Đậu Hiến đi đánh Hung Nô, Ban Cố đã buông lỏng quản lý người nhà, để họ làm bậy. Người nhà Ban Cố có xô xát với Xung Kinh nhưng do ông có quan hệ với Đậu Hiến nên Xung Kinh đành chịu im. Khi Đậu Hiến bị xử tội, Xung Kinh mang việc trước ra tố cáo lên triều đình, do đó Ban Cố bị bắt giam.

Về sau, Hán Hòa Đế cho phép Ban Chiêu được vào Đông Quan Tàng Thư các (藏书阁) để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư. Những phần do bà soạn, từ tập 13 đến 20 (Bát biểu biên niên) và tập 26 (Thiên văn chí), được coi là mẫu mực cho nhiều tác phẩm lịch sử về sau. Sau khi bộ Tiền Hán Thư cho xuất bản, đã được sự đánh giá rất cao. Chương gay cấn nhất trong Tiền Hán Thư là bảng thứ 7 Bảng bách quan công khanh và Chí thứ 6 Thiên văn chí, hai bộ phận này về sau đều do Ban Chiêu hoàn thành. Học thức của Ban Chiêu hết sức tinh túy, để cầu được sự chỉ dẫn của Ban Chiêu, nhà học giả lớn hồi bấy giờ tên là Mã Dung đã phải quỳ ở bên ngoài thư viện đọc sách của Ban Chiêu để lắng nghe bà giảng giải. Sau đó, Hán Hòa Đế cho vời Ban Chiêu vào cung dạy học cho cung nhân, khi ấy Ban Chiêu đã hơn 40 tuổi, lại học rộng biết nhiều, người đời đều kính xưng bằng danh vị cao quý là [Tào đại cô; 曹大姑] (do bà gả cho họ Tào)[1][2]. Mỗi lần các địa phương cống lên những thứ trân quý mới lạ, Hòa Đế đều gọi Ban Chiêu sáng tác phú để tán dương[3].

Khi Đặng Thái hậu lâm triều nghe chính, Ban Chiêu được phép cùng Thái hậu bàn luận chính sự, được xưng gọi Thái hậu sư (太后師; nghĩa là "Thầy dạy của Thái hậu"). Bà thông minh đoan chính, can gián điều sai, góp nhiều ý kiến bàn luận sâu sắc khiến Thái hậu rất tâm đắc. Do đó, Đặng Thái hậu đặc cách phong con trai bà tước Quan nội hầu (关内侯), làm tới chức Quốc tướng của nước Tề[4].

Năm Vĩnh Sơ thứ 7 (113), con trai bà là Tào Thành đến Trần Lưu quận (陈留郡; nay là huyện Trường Viên, Hà Nam), bà cùng con trai cũng đến đó. Sau khi đến đây, bà tức cảnh sinh tình, đem Bắc chinh phú (北征赋) của Ban Bưu thành Đông chinh phú (东征赋). Khoảng năm Nguyên Sơ thứ 4 (117), Ban Chiêu qua đời, thọ khoảng hơn 70 tuổi. Đặng Thái hậu thân mặc tố phục khóc tang, phái sứ giả đến coi việc tang sự của bà[5][6][7]. Ngày nay, một miệng núi lửa trên Sao Kim được đặt theo tên của Ban Chiêu.

Câu chuyện

sửa

Vì anh dâng sớ

sửa

Khoảng năm Vĩnh Nguyên đời Hán Hoà Đế, anh thứ của Ban Chiêu là Ban Siêu lâu ngày ở vùng biên cương, muốn xin trở về Đại Hán. Ban Chiêu vì anh trai mà dâng lên cho Hoà Đế một đạo tấu sớ, viết:

Sớ này dâng lên, Hòa Đế xem mà cảm động. Cuối cùng, Hòa Đế phái Mậu Kỷ giáo úy Nhậm Thượng (任尚) tiếp nhận thay chức Tây Vực đô hộ cho Ban Siêu, vì thế Ban Siêu mới có thể quay về cố hương.

Gián ngôn Thái hậu

sửa

Những năm Vĩnh Sơ, anh trai Thái hậu là Đặng Chất lấy lý nhân do mẫu thân Âm phu nhân qua đời, xin Đặng Thái hậu cho từ quan về quê. Đặng Thái hậu ban đầu không đồng ý, hỏi ý kiến Ban Chiêu, bà đáp[10]:

Đặng Thái hậu nghe thấy, suy nghĩ hồi lâu và chuẩn cho Đặng Chất cùng họ hàng của mình về quê từ quan[11].

Viết ra Nữ giới

sửa

Ban Chiêu lúc tuổi già, thân hoạn bệnh tật, trong nhà có con gái đều sắp đến tuổi xuất giá. Bà lo sợ các nàng khi về nhà chồng, tính cách không hòa hợp, lại ỷ vào gia thế mà không có chừng mực nên nhàn nhã viết ra một cuốn sách 7 chương, gọi [Nữ giới; 女诫].

Cuốn sách này hỗ trợ và phát động ["Tam tòng chi đạo"; 三從之道] và ["Tứ đức chi nghi"; 四德之儀] của nữ giới, khiến các nữ tử xuất thân danh môn biết thu liễm thân phận mà có hành vi đúng mực. Ban Chiêu qua đó biết rõ thân phận của phụ nữ nói chung đương thời, dù xuất thân cao sang, nhưng bên ngoài đều là nam giới nắm quyền, nếu không biết chừng mực sẽ thành đại họa. Trong sách, Ban Chiêu cổ vũ nữ giới biết rành rõ việc nhà, nắm rõ cách quản xuyến tài sản nhà cửa, thực hiện phụng dưỡng cha mẹ, đặt ra 4 thứ hình thành phẩm giá phụ nữ: Phụ đức (妇德), Phụ ngôn (妇言), Phụ dung (妇容) cùng Phụ công (妇功). Sách khi làm ra, được nam giới tán thưởng và dần hình thành nên cái gọi là ["Tam tòng Tứ đức"] của phụ nữ về sau, trở thành một trong Nữ tứ thư (女四書) thời cổ đại[12][13][14].

Khi cuốn sách này được viết ra, đường thời cũng có đánh giá trái chiều. Một người hâm mộ Ban Chiêu là Mã Dung cảm thấy rất hay, bèn đem về dạy cho vợ và con gái[15]. Trong khi một em chồng của Ban Chiêu, tức em gái của Tào Thế Thức là Tào Phong Sinh (曹豐生) cảm thấy bất bình với 7 chương Nữ giới, viết thư phản bác[16].

Gia phả

sửa
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Nhất
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Nhụ
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Trường
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Hồi
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Huống
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Bá
 
Ban Du
 
Ban Trĩ
 
Ban Tiệp dư
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Tự
 
Ban Bưu
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ban Cố
 
Định Viễn hầu Ban Siêu
 
Ban Chiêu
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Định Viễn hầu Ban Hùng
 
Ban Dũng
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Định Viễn hầu Ban Thủy

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ Chữ [家] có âm "gia" hoặc "cô". Phiên âm Hán về cách gọi này của Ban Chiêu đều lấy "cô", âm gần như Đại cô 大姑.
  2. ^ 当时人们把学识高、品德好的妇女尊称为"大家";"家"在此读姑。
  3. ^ 范晔《后汉书·卷八十四·列女传第七十四》:兄固著汉书,其八表及《天文志》未及竟而卒,和帝诏昭就东观臧书阁踵而成之。帝数召入宫,令皇后诸贵人师事焉,号曰大家。每有贡献异物,辄诏大家作赋颂。
  4. ^ 范晔《后汉书·卷八十四·列女传第七十四》:及邓太后临朝,与闻政事。以出入之勤,特封子成关内侯,官至齐相。
  5. ^ 班昭《东征赋》:惟永初之有七兮,余随子乎东征。......到长垣之境界,察农野之居民。
  6. ^ 《三辅决录》:曹成,寿之子也。司徒椽察孝廉,为长垣长。母为太师后。征拜中散大夫。
  7. ^ 范晔《后汉书·卷八十四·列女传第七十四》:昭年七十余卒,皇太后素服举哀,使者监护丧事。
  8. ^ Triệu Mẫu 趙母, vợ Triệu Xa, mẹ Triệu Quát. khi Quát gây chuyện, xin thỉnh tội trước, cuối cùng không bị giáng, sự việc xem ở Sử ký. Vệ Cơ 衛姬, cơ thiếp của Tề Hoàn công. Khi Hoàn công cùng Quản Trọng đánh nước Vệ, Vệ Cơ thỉnh tội, có thể xem Liệt nữ truyện.
  9. ^ 後漢書*卷四十七
  10. ^ 《後漢書·卷八十四·列女傳·第七十四》: 永初中,太后兄大將軍鄧騭以母憂,上書乞身,太后不欲許,以問昭。昭因上疏曰:「伏惟皇太后陛下,躬盛德之美,隆唐虞之政,闢四門而開四聰,采狂夫之瞽言,納芻蕘之謀慮。妾昭得以愚朽,身當盛明,敢不披露肝膽,以效萬一。妾聞謙讓之風,德莫大焉,故典墳述美,神祇降福。昔夷齊去國,天下服其廉高;太伯違邠,孔子稱為三讓。所以光昭令德,揚名于後者也。《論語》曰:『能以禮讓為國,於從政乎何有。』由是言之,推讓之誠,其致遠矣。今四舅深執忠孝,引身自退,而以方垂未靜,拒而不許;如後有毫毛加於今日,誠恐推讓之名不可再得。緣見逮及,故敢昧死竭其愚情。自知言不足采,以示蟲螘之赤心。」太后從而許之。於是騭等各還里第焉。
  11. ^ 范晔《后汉书·卷八十四·列女传第七十四》:太后从而许之。于是骘等各还里第焉。
  12. ^ 班昭《女诫》:但伤诸女方当适人,而不渐训诲,不闻妇礼,惧失容它门,取耻宗族。吾今疾在沈滞,性命无常,念汝曹如此,每用惆怅。间作《女诫》七章,愿诸女各写一通,庶有补益,裨助汝身。去矣,其勖勉之!
  13. ^ 张宏儒,张晓虎主编.中华人物史鉴·第四卷.北京:团结出版社,1997.08
  14. ^ 钟翠红.《女诫》之女性观透视及其历史意义[J].中华女子学院学报.2006年10月
  15. ^ 范晔《后汉书·卷八十四·列女传第七十四》:马融善之,令妻女习焉。
  16. ^ 范晔《后汉书·卷八十四·列女传第七十四》:昭女妹曹丰生,昭婿之妹也。亦有才惠,为书以难之,辞有可观。

Liên kết ngoài

sửa