Rafael Nadal
Quốc tịch | Tây Ban Nha |
---|---|
Nơi cư trú | Manacor, Mallorca |
Chiều cao | 1,85 m (6 ft 1 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ] |
Lên chuyên nghiệp | 2001 |
Tay thuận | tay trái; revers hai tay |
Tiền thưởng | 17.476.415 US$ |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 297 - 73 |
Số danh hiệu | 27 |
Thứ hạng cao nhất | Số 2 (25 tháng 7, 2005) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | SF (2008) |
Pháp mở rộng | W (2005, 2006, 2007, 2008) |
Wimbledon | F (2006, 2007) |
Mỹ Mở rộng | QF (2006) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 65 - 42 |
Số danh hiệu | 4 |
Thứ hạng cao nhất | Số 26 (8 tháng 8, 2005) |
Cập nhật lần cuối: 9 tháng 6, 2008. |
Rafael "Rafa" Nadal Parera (IPA: [rafa'el na'ðal]) (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986 tại Manacor, Mallorca) là vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Tây Ban Nha. Tính đến tháng 6 năm 2008, anh xếp hạng nhì trên thế giới (150 tuần liên tục). Anh đã ba lần giành được danh hiệu Grand Slam đơn, là bốn chiến thắng liên tiếp ở giải Pháp Mở rộng (2005-08). Tại giải này, Nadal đang bất bại với 28 trận thắng liên tục trong bốn lần tham dự. Nadal đang giữ kỉ lục có chuỗi trận thắng dài nhất trên sân đất nện trong kỉ nguyên mở rộng của quần vợt. Từ tháng 4 năm 2005 đến tháng 5 năm 2007, anh đã chiến thắng 81 trận liên tiếp trên mặt sân này.
Thời niên thiếu
Nadal sinh ra tại Manacor, Mallorca, bố là Sebastian và mẹ là Ana Maria; anh cũng có một cô em gái tên Maria Isabel. Bố anh làm chủ một nhà hàng và một xưởng làm kính. Bác của anh, Miguel Ángel Nadal, là một cầu thủ bóng đá đã nghỉ hưu, từng chơi cho đội RCD Mallorca, FC Barcelona và đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Cho đấn giờ, Nadal vẫn là một cổ động viên cho đội tuyển RCD Mallorca cũng như đội Real Madrid. Một người bác khác, Toni, hiện tại đang là huấn luyện viên của anh, đã dạy anh bài học quần vợt đầu tiên khi anh được 3 tuổi.
Mặc dù chơi tay trái, Nadal bẩm sinh là người thuận tay phải. Khi còn nhỏ, Toni Nadal thấy rằng những cú revers hai tay sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ một cánh tay phải mạnh mẽ, vì vậy ông đã dạy cho Nadal chơi bằng tay trái.
Tới tận 12 tuổi, Nadal mới quýât định theo đuổi sự nghiệp quần vợt thay vì bóng đá. Tháng 5/2001, khi Nadal được 14 tuổi, anh được thi đấu một trận giao hữu trân sân đất nện với tay vợt nổi tiếng Pat Cash. Ban đầu Cash được xếp lịch chơi với Boris Becker, nhưng đã phải miễn cưỡng đấu với Nadal. Cash để thua sát nút trận đấu này.
2002-2004
Năm 2002, tay vợt 15 tuổi thắng trận đấu ATP đầu tiên của mình, đánh bại Ramon Delgado tại Mallorca để trở thành tay vợt thứ chín trong kỉ nguyên mới thắng một trận đấu ATP trước sinh nhật thứ 16 của mình.
Năm 2003, Nadal trở thành tay vợt trẻ thứ hai trong lịch sử lọt vào bảng xếp hạng 100 Tay Vợt Đánh Đơn. Anh kết thúc năm 2003 ở thứ hạng 50, giành hai danh hiệu Challenger. Tại Wimbledon lần đầu tiên của mình, khi được 17 tuổi, Nadal trở thành tay vợt trẻ nhất lọt vào vòng 3 giải này kể từ năm 1984 với Boris Becker lúc 16 tuổi.
2005
Đây là năm tiến bộ vượt bậc của Nadal. Tại Úc Mở Rộng, an vào đến vòng 4 và buộc Lleyton Hewitt, á quân lần đó, đấu với mình những 5 ván. Hai tháng sau, anh vào đến trận chung kết Miami Masters - mặc dù chỉ thiếu 2 điểm nữa là đoạt chức vô địch – nhưng đó là thất bại trong 5 ván với tay vợt số 1 thế giới Roger Federer.
Bước vào mùa giải đất nện, anh đã thắng tại 2 sự kiện ATP Master Series của năm là Monte Carlo và Roma. Vào thởi điểm này của năm, Nadal đã giành 24 trận thắng liên tiếp và đó là chuỗi trận thắng dài nhất của một tay vợt tuổi “teen”, trên cả 23 trận của Andre Agassi năm 1988. Tháng 5/2005, Nadal lọt vào top 5 tay vợt hàng đầu, trở thành tay vợt trẻ nhất làm được điều này kể từ năm 1993 khi Andrei Medvedev lọt vào top 10.
Nadal tham dự giải Pháp Mở rộng, một trong những giải anh yêu thích lần đầu tiên trong đời. Anh đã đánh bại Sebastien Grosjean và Richard Gasquet, hai niềm hi vọng của người d��n Pháp. Vào ngày sinh nhật thứ 19 của mình, anh đánh bại Roger Federer trong trận bán kết, ngăn không cho tay vợt người Thụy Sĩ giành giải Grand Slam này. Hai ngày sau, anh trở thành Vô địch Pháp Mở rộng trẻ thứ 4 trong lịch sử sau khi thắng Mariano Puerta trong trận chung kết. Anh cũng là một trong 7 tay vợt đăng quang tại một giải Grand Slam lần đầu tham dự, bên cạnh Andre Agassi năm 1995 tại Pháp Mở rộng. Nadal trở thành tay vợt vị thành niên đầu tiên thắng một Grand Slam từ năm 1990 khi Pete Sampras thắng giải Mỹ Mở rộng. Nadal là tay vợt thành niên đầu tiên có ít nhất 6 danh hiệu kể từ khi Andre Agassi làm được điều này năm 1988 lúc 18 tuổi.
Ba ngày sau khi đăng quang, chuỗi bất bại của anh bị chận đứng khi để thua tay vợt Đức Alexander Waske tại vòng 1 giải Halle, Đức. Anh lại một lần nữa phải thất vọng khi dừng bước tại vòng 2 giải Wimbledon, để thua Gilles Muller đến từ Luxembourg.
Nadal khởi đầu mùa giải trên mặt sân cứng bằng việc đánh bại Andre Agassi tại Canada Masters. Nadal được xếp hạt giống ở Mỹ Mở rộng, nhưng đã để thua James Blake trong 4 ván. Su đó, anh còn giành thêm 2 danh hiệu trên mặt sân đất nện. Tháng 9, anh đánh bại Guillermo Coria tại giải Trung quốc Mở rộng. Tháng 10, anh giành Madrid Masters.
Sau đó, anh bị chấn thương bàn chân, khiến anh không tham dự được giải Tennis Master Cup vào cuối năm và kéo sang đầu 2006, khiến anh phải bỏ luôn Úc Mở rộng.
Tổng kết, anh giành được 11 danh hiệu ATP, 4 Master Series, bằng tay vợt số 1 Roger Federer. Anh cũng giành 79 trận thắng, chỉ xếp sau 81 trận của Roger Federer.
2006
Sự ganh đua dữ dội giữa Nadal và Roger Federer tiếp tục ở năm 2006. Tháng 3 năm 2006, Nadal trao tặng Federer thất bại đầu tiên trong năm tại giải Dubai, thắng 2-6, 6-4, 6-4. Nadal đánh bại Federer thêm một lần nữa tại Monte Carlo Masters với tỉ số 6-2, 6-7, 6-3, 7-6.
Cả hai lại chạm trán tại trận chung kết Rome Masters trên sân đất nên. Federer để thua 6-7, 7-6, 6-4, 6-2, 7-6.
Nadal phá vỡ kỉ lục 53 trận thắng liên tiếp trên mặt sân đất nên của Guillermo Villas khi đánh bại Robin Soderling tại vòng 1 Pháp Mở rộng. Với thắng lợi này, Nadal được trao một chiếc cúp mang hình dáng của một sân đấu đất nện. Villas là người trao cúp cho Nadal, mặc dù anh không thừa nhận kỳ tích của Nadal là ấn tượng hơn của mình.
Trận chung kết Pháp Mở rộng được háo hức mong chờ, diễn ra giữa Federer số 1 và Nadal số 2 của thế giới. Đối với Federer, đây là danh hiệu còn thiếu duy nhất trong số 4 danh hiệu Grand Slam của năm. Còn với Nadal, là việc anh phải bảo vệ chức vô địch của mình, đồng thời duy trì ưu thế chạm trán giữa anh và Federer. Federer để thua lần nữa.
Trong bài phát biểu sau trận đấu, anh đã ca ngợi màn thi đấu Federer, nhưng bị thông dịch sang tiếng Pháp nhầm, và mọi người tưởng rằng anh đang ca ngợi bản thân mình. Vì vậy trong suốt phần còn lại của bài phát biểu, anh bị đám đông huýt sáo chế giễu.
2007
Nadal mở đầu 2007 bằng việc lọt đến bán kết giải Chennai Open, Ấn Độ. Tiếp sau đó, tại giải Sydney, anh đã bỏ cuộc trong trận đấu đầu tiên do chấn thương háng. Tại giải Úc Mở rộng, Nadal đánh bại Andy Murray, lọt đến vòng tứ kết, nhưng lại thua Fernado Gonzalez, á quân của giải.
Nadal đánh bại Roger Federer trong trận chung kết giải Monte Carlo Masters 6-4, 6-4. Đây là lần thứ 3 liên tiếp anh vô địch giải này, lần đầu tiên kể từ khi Illie Năstase vào năm 1971-1973. Nadal tiếp tục lập hat-trick tại các giải Open Seat (Tây Ban Nha), Rome Master. Đến Hamburg Masters, anh đã để thua Roger Federer 2-6, 6-2, 6-0. Trận thua này chấm dứt chuỗi 81 trận bất bại trên mặt sân đất nện của anh.
Tại giải Pháp Mở rộng, Nadal vượt qua Roger Federer trong trận chung kết, để giành danh hiệu Pháp Mở rộng lần thứ 3 liên tiếp. Với chiến thắng này, anh trở thành tay vợt đầu tiên kể từ khi Bjorn Borg giành 3 cúp giải Pháp Mở rộng 3 năm liên tiếp 1978-1981.
Để chuẩn bị cho Wimbledon, anh đến thi đấu tại Queen’s Club và để thua Nicolas Mahut trong trận tứ kết.
Tại Wimbledon, anh lần thứ hai trong đời lọt vào đến chung kết Wimbledon, đã từng để thua Federer vào năm 2006. Trong con đường đến chung kết, anh đã vượt qua Mikhail Youhzny (bị chấn thương khi đang thi đấu) ở vòng 4, Novak Djokovic (bỏ cuộc vì chấn thương) ở bán kết. Khởi đầu trận đấu, Nadal để thua ván đầu 7-6 (7), thắng ván hai 4-6. Sau đó, lại để thua trong loạt tie-break ở ván ba 7-6 (3) rồi thắng ván tư 6-2. Khi dẫn trước 4-1 ở ván 4, anh đã phải rời khỏi sân một chút để băng đầu gối. Sang ván 5, ván quyết định, anh để thua 6-2.
Sau trận đấu này, tỉ số những lần đối đầu giữa Fed và Nadal đã là 5-8. Trên mặt sân đất nện, Nadal thắng 6 thua 1; sân cứng là 2-2; sân cỏ thua 2 trận và không thắng trận nào.
Trận đấu trên các mặt sân
Sự nghiệp
Chung kết đơn Nam Grand Slam (6)
Thắng (4)
Year | Championship | Opponent in Final | Score in Final |
---|---|---|---|
2005 | French Open | Mariano Puerta | 6–7, 6–3, 6–1, 7–5 |
2006 | French Open (2) | Roger Federer | 1–6, 6–1, 6–4, 7–6 |
2007 | French Open (3) | Roger Federer | 6–3, 4–6, 6–3, 6–4 |
2008 | French Open (4) | Roger Federer | 6–1,6-3, 6–0 |
Thua (2)
Year | Championship | Opponent in Final | Score in Final |
---|---|---|---|
2006 | Wimbledon | Roger Federer | 6–0, 7–6, 6–7, 6–3 |
2007 | Wimbledon (2) | Roger Federer | 7–6, 4–6, 7–6, 2–6, 6–2 |
ATP Masters Series Chung kết (15)
Thắng (11)
Year | Championship | Opponent in Final | Score in Final |
---|---|---|---|
2005 | Monte Carlo | Guillermo Coria | 6–3, 6–1, 0–6, 7–5 |
2005 | Roma | Guillermo Coria | 6–4, 3–6, 6–3, 4–6, 7–6 |
2005 | Montréal | Andre Agassi | 6–3, 4–6, 6–2 |
2005 | Madrid | Ivan Ljubičić | 3–6, 2–6, 6–3, 6–4, 7–6 |
2006 | Monte Carlo(2) | Roger Federer | 6–2, 6–7, 6–3, 7–6 |
2006 | Roma(2) | Roger Federer | 6–7, 7–6, 6–4, 2–6, 7–6 |
2007 | Indian Wells | Novak Đoković | 6–2, 7–5 |
2007 | Monte Carlo(3) | Roger Federer | 6–4, 6–4 |
2007 | Roma(3) | Fernando González | 6–2, 6–2 |
2008 | Monte Carlo(4) | Roger Federer | 7–5, 7–5 |
2008 | Hamburg | Roger Federer | 7-5, 6-7(3), 6-3 |
Thua (4)
Year | Championship | Opponent in Final | Score in Final |
---|---|---|---|
2005 | Miami | Roger Federer | 2–6, 6–7, 7–6, 6–3, 6–1 |
2007 | Hamburg | Roger Federer | 2–6, 6–2, 6–0 |
2007 | Paris | David Nalbandian | 6–4, 6–0 |
2008 | Miami | Nikolay Davydenko | 6–4, 6–2 |
2008 | Paris | Roger Federer | 6–1, 6–3, 6–0 |
Chung kết (41)
Đơn(34)
Thắng (26)
|
|
No. | Ngày | Tournament | Mặt sân | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|
1. | 9 August, 2004 | Sopot, Ba Lan | Clay | José Acasuso | 6–3, 6–4 |
2. | 14 February, 2005 | Costa do Sauípe, Brasil | Clay | Alberto Martín | 6–0, 6–7(2), 6–1 |
3. | 21 February, 2005 | Acapulco, Mexico | Clay | Álbert Montañés | 6–1, 6–0 |
4. | 17 April, 2005 | Monte Carlo, Monaco | Clay | Guillermo Coria | 6–3, 6–1, 0–6, 7–5 |
5. | 24 April, 2005 | Barcelona, Tây Ban Nha | Clay | Juan Carlos Ferrero | 6–1, 7–6(4), 6–3 |
6. | 2 May, 2005 | Roma, Ý | Clay | Guillermo Coria | 6–4, 3–6, 6–3, 4–6, 7–6(6) |
7. | 5 June, 2005 | French Open, Paris, Pháp | Clay | Mariano Puerta | 6–7(6), 6–3, 6–1, 7–5 |
8. | 4 July, 2005 | Båstad, Thụy Điển | Clay | Tomáš Berdych | 2–6, 6–2, 6–4 |
9. | 18 July, 2005 | Stuttgart, Đức | Clay | Gastón Gaudio | 6–3, 6–3, 6–4 |
10. | 14 August, 2005 | Montréal, Canada | Hard | Andre Agassi | 6–3, 4–6, 6–2 |
11. | 18 September, 2005 | Bắc Kinh, Trung Quốc | Hard | Guillermo Coria | 5–7, 6–1, 6–2 |
12. | 23 October, 2005 | Madrid, Tây Ban Nha | Hard (I) | Ivan Ljubičić | 3–6, 2–6, 6–3, 6–4, 7–6(3) |
13. | 4 March, 2006 | Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất | Hard | Roger Federer | 2–6, 6–4, 6–4 |
14. | 23 April, 2006 | Monte Carlo, Monaco | Clay | Roger Federer | 6–2, 6–7(2), 6–3, 7–6(5) |
15. | 30 April, 2006 | Barcelona, Tây Ban Nha | Clay | Tommy Robredo | 6–4, 6–4, 6–0 |
16. | 14 May, 2006 | Roma, Ý | Clay | Roger Federer | 6–7(0), 7–6(5), 6–4, 2–6, 7–6(5) |
17. | 11 June, 2006 | French Open, Paris, Pháp | Clay | Roger Federer | 1–6, 6–1, 6–4, 7–6(4) |
18. | 18 March, 2007 | Indian Wells, California, Hoa Kỳ | Hard | Novak Đoković | 6–2, 7–5 |
19. | 22 April, 2007 | Monte Carlo, Monaco | Clay | Roger Federer | 6–4, 6–4 |
20. | 29 April, 2007 | Barcelona, Tây Ban Nha | Clay | Guillermo Cañas | 6–3, 6–4 |
21. | 13 May, 2007 | Roma, Ý | Clay | Fernando González | 6–2, 6–2 |
22. | 10 June, 2007 | French Open, Paris, Pháp | Clay | Roger Federer | 6–3, 4–6, 6–3, 6–4 |
23. | 22 July, 2007 | Stuttgart, Đức | Clay | Stanislas Wawrinka | 6–4, 7–5 |
24. | 27 April, 2008 | Monte Carlo, Monaco | Clay | Roger Federer | 7–5, 7–5 |
25. | 4 May, 2008 | Barcelona, Tây Ban Nha | Clay | David Ferrer | 6–1, 4–6, 6–1 |
26. | 18 May, 2008 | Hamburg, Đức | Clay | Roger Federer | 7-5, 6-7(3), 6-3 |
thua trận chung kết (8)
No. | Ngày | Tournament | Mặt sân | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|
1. | 12 January, 2004 | Auckland, New Zealand | Hard | Dominik Hrbatý | 4–6 6–2 7–5 |
2. | 3 April, 2005 | Miami, Hoa Kỳ | Hard | Roger Federer | 2–6, 6–7(4), 7–6(5), 6–3, 6–1 |
3. | 9 July, 2006 | Wimbledon, London, Anh Quốc | Grass | Roger Federer | 6–0, 7–6(5), 6–7(2), 6–3 |
4. | 20 May, 2007 | Hamburg, Đức | Clay | Roger Federer | 2–6, 6–2, 6–0 |
5. | 8 July, 2007 | Wimbledon, London, Anh Quốc | Grass | Roger Federer | 7–6(7), 4–6, 7–6(3), 2–6, 6–2 |
6. | 4 November, 2007 | Paris, Pháp | Hard (i) | David Nalbandian | 6–4, 6–0 |
7. | 6 January, 2008 | Chennai, Ấn Độ | Hard | Mikhail Youzhny | 6–0, 6–1 |
8. | 6 April, 2008 | Miami, Hoa Kỳ | Hard | Nikolay Davydenko | 6–4, 6–2 |
Đánh đôi (7)
Thắng (4)
No. | Ngày | Tournament | Mặt sân | Người đánh cùng | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 21 August, 2003 | Umag, Croatia | Clay | Álex López Morón | Todd Perry Thomas Shimada |
6–1, 6–3 |
2. | 5 January, 2004 | Chennai, Ấn Độ | Hard | Tommy Robredo | Jonathan Erlich Andy Ram |
7–6(3), 4–6, 6–3 |
3. | 3 January, 2005 | Doha, Qatar | Hard | Albert Costa | Andrei Pavel Mikhail Youzhny |
6–3, 4–6, 6–3 |
4. | 27 April, 2008 | Monte Carlo, Monaco | Clay | Tommy Robredo | Mahesh Bhupathi Mark Knowles |
6–3, 6–3 |
Thua (3)
No. | Ngày | Tournament | Mặt sân | Người đánh cùng | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 18 April, 2005 | Barcelona, Tây Ban Nha | Clay | Feliciano López | Leander Paes Nenad Zimonjić |
6–3, 6–3 |
2. | 8 January, 2007 | Chennai, Ấn Độ | Hard | Tomeu Salvà | Xavier Malisse Dick Norman |
7–6(4), 7–6(4) |
3. | 30 April, 2007 | Barcelona, Tây Ban Nha | Clay | Tomeu Salvà | Andrei Pavel Alexander Waske |
6–3, 7–6(1) |