HMS Marne (G35)
HMS Marne (G35) là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, ngừng hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc, được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1959 và được đổi tên thành Mareşal Fevzi Çakmak. Nó bị loại bỏ và tháo dỡ vào năm 1970.
Tàu khu trục HMS Marne (G35)
| |
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Marne (G35) |
Xưởng đóng tàu | Vickers-Armstrong, Newcastle upon Tyne |
Đặt lườn | 23 tháng 10 năm 1939 |
Hạ thủy | 30 tháng 10 năm 1940 |
Nhập biên chế | 2 tháng 12 năm 1941 |
Số phận | Bán cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ, 26 tháng 3 năm 1959 như là chiếc Mareşal Fevzi Çakmak |
Lịch sử | |
Thổ Nhĩ Kỳ | |
Tên gọi | Mareşal Fevzi Çakmak |
Đặt tên theo | Fevzi Çakmak |
Trưng dụng | 26 tháng 3 năm 1959 |
Số phận | Loại bỏ 1970 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục M |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 362 ft 3 in (110,4 m) (chung) |
Sườn ngang | 37 ft (11,3 m) |
Mớn nước | 10 ft (3,0 m) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph) |
Tầm xa | 5.500 nmi (10.200 km; 6.300 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 221 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
Thiết kế và chế tạo
sửaMarne được đặt hàng cho xưởng tàu High Walker của hãng Vickers-Armstrongs ở Newcastle-upon-Tyne, Anh Quốc. Nó được đặt lườn vào ngày 23 tháng 10 năm 1939; được hạ thủy vào ngày 30 tháng 10 năm 1940 và được đưa ra hoạt động vào ngày 2 tháng 12 năm 1941.
Lịch sử hoạt động
sửaHMS Marne đã nằm trong thành phần Đoàn tàu vận tải PQ-15, và đã cùng với tàu chị em HMS Martin giúp vào việc cứu vớt 169 người sống sót của chiếc HMS Punjabi, sau khi nó bị chìm do va chạm với thiết giáp hạm HMS King George V.
HMS Hecla và HMS Vindictive cùng với các tàu hộ tống HMS Venomous và HMS Marne đã nằm trong thành phần m��t đoàn tàu vận tải trong Chiến dịch Torch về phía Tây Gibraltar. Vào ngày 12 tháng 11 năm 1942, tàu ngầm U-boat Đức U-515 đã phóng ngư lôi đánh chìm HMS Hecla, và chỉ vài phút sau đã phóng thêm hai quả ngư lôi khác nhắm vào HMS Marne, gây hư hại nặng cho nó và làm nổ tung mũi tàu. Nó được kéo quay trở lại Gibraltar để sửa chữa.
HMS Marne được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1959 và được đổi tên thành Mareşal Fevzi Çakmak, theo tên Fevzi Çakmak (1876–1950), một Thống chế và là Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ. Nó phục vụ cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ cho đến năm 1970, khi nó bị loại bỏ và tháo dỡ.
Tham khảo
sửa- ^ Hodges & Friedman 1979, tr. 40
- Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
- Friedman, Norman (2006). British Destroyers & Frigates: The Second World War and After. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-86176-137-6.
- Hodges, Peter; Friedman, Norman (1979). Destroyer Weapons of World War 2. Conway Maritime Press. ISBN 9780851771373.
- Lenton, H. T. (1998). British & Empire Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-048-7.
- Rohwer, Jürgen (2005). Chronology of the War at Sea 1939-1945: The Naval History of World War Two . Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-119-2.
- Whitley, M. J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.
Liên kết ngoài
sửa