Carly Rae Jepsen (sinh ngày 21 tháng 11 năm 1985)[1][2] là một ca sĩ, nhạc sĩ và nữ diễn viên người Canada. Năm 2007, cô xếp vị trí thứ ba trong mùa thứ năm của Canadian Idol, và phát hành album phòng thu "Tug of War" (2008) một cách độc lập. Năm 2011, cô phát hành đĩa đơn "Call Me Maybe", đạt vị trí số một tại 18 quốc gia và trở thành đĩa đơn bán chạy nhất vào năm 2012. Cũng năm đó, Jepsen phát hành đĩa mở rộng, "Curiosity", và sau đó là album phòng thu thứ hai, "Kiss". "I Really Like You", đĩa đơn chính từ album phòng thu thứ ba của cô, "Emotion" (2015), đã lọt vào top 5 trên bảng xếp hạng ở Anh và đứng đầu ở Canada.

Carly Rae Jepsen
Thông tin nghệ sĩ
Sinh21 tháng 11, 1985 (38 tuổi)
Mission, British Columbia, Canada
Thể loạiPop
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • người viết bài hát
  • diễn viên
Nhạc cụ
  • Hát
  • guitar
Năm hoạt động2007–nay
Hãng đĩa
Websitecarlyraemusic.com

Jepsen đã nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có ba giải Juno Awards, giải Billboard Music và giải Allan Slaight, cùng với đó là đề cử giải Grammy Awards, Emmy Awards, Giải thưởng Âm nhạc MTV, Polaris Music PrizePeople's Choice Awards.[3][4] Tính đến tháng 5 năm 2015, Jepsen đã bán được hơn 20 triệu bản nhạc trên toàn thế giới.[5][6]

Thời thơ ấu

sửa

Jepsen sinh ra tại Mission, British Columbia, bố mẹ cô là Alexandra và Larry Jepsen. Cha dượng của cô là Ron Lanzarotta.[7][8]

Cô theo học trường trung học Heritage Park tại Mission, nơi cô theo đuổi niềm đam mê của mình với sân khấu âm nhạc với việc xuất hiện trong các sản phẩm âm nhạc học sinh Annie, Grease và The Wiz.[9] Cô học nhạc kịch tại trường Cao đẳng Nghệ thuật biểu diễn Canada ở Victoria, British Columbia.

Sự nghiệp âm nhạc

sửa

2007 - 2010: Ra mắt chính thức và Tug on War

sửa
 
Carly Rae Jepsen biểu diễn năm 2010.

Sau khi tốt nghiệp, Jepsen đã có một số công việc với mức lương ổn định, với công việc pha chế đồ uống kiêm phục vụ tại một quầy bar.[9] Jepsen đã luyện tập, mài dũa kỹ năng sáng tác của cô với một cây đàn guitar mà cha mẹ cô đã tặng. Trong năm 2007, quyết định theo đuổi sự nghiệp ca hát bắt đầu với việc than gia cuộc thi Thần tượng Âm nhạc Canada (Canadian Idol).[9] Cô giành giải ba trong chương trình tham gia tour diễn Canada Idol Top 3. Sau khi kết thúc tour diễn, Jepsen trở lại British Columbia để tập trung vào việc viết, thu âm và hoàn thành ban nhạc của mình. Bản demo của cô thu hút sự chú ý của quản lý Jonathan Simkin và đã ký hợp đồng với cô.[10] Jepsen thực hiện một hợp đồng thu âm độc quyền với MapleMusic Recordings và phân phối qua Fontana North.

Vào tháng 6 năm 2008, Jepsen phát hành đĩa đơn đầu tay của cô và một đĩa đơn khác là một bản cover ca khúc "Sunshine on My Shoulders" của John Denver.[11] Album đầu tay của Jepsen, "Tug of War" đã được phát hành vào tháng 9 năm 2008 thông qua MapleCore / Fontana North. Album được sản xuất hoàn toàn bởi Ryan Stewart, bao gồm cả bài hát "Sweet Talker" mà Jepsen đã thử giọng trong buổi đầu tiên của Canadian Idol.[12] "Tug of War" được phát hành lại qua nhãn 604 Records của Jonathan Simkin và phân phối qua Universal Music Group. Album đã bán được 10.000 bản tại Canada (theo Nielsen SoundScan).[10] Ca khúc chủ đề "Tug of War" được phát hành cùng tháng với album và nhận được đề nghị phát sóng trên radio tại Canada, tiếp đến là hai đĩa đơn "Bucket""Sour Candy", song tấu với Josh Ramsay của Marianas Trench. Hai đĩa đơn đã đạt vị trí 40 trên bảng xếp hạng Canada Hot 100.[13] Vào đầu năm 2009, Jepsen tham gia lưu diễn miền tây Canada với Marianas TrenchShiloh.[14] Sau đó cô tham gia tour diễn xuyên Canada với Marianas Trench, The New CitiesMission District.

2011 - 2013: Thành công quốc tế với CuriosityKiss

sửa

Jepsen thu âm cho album thứ hai của mình vào năm 2011 với Josh Ramsy, Ryan StewartTavish Crowe, đồng sáng tác ca khúc "Call Me Maybe" với cô, phát hành tại Canada vào Tháng 9 năm 2011.[10] Vào tháng 1 năm 2012, ca sĩ nhạc pop người Canada, Justin Bieber, đã tweet về bài hát này với hàng triệu người theo dõi trên Twitter và trong tháng tiếp theo, bài hát đã xuất hiện trong một video virut, trong đó có Bieber, Selena GomezAshley Tisdale cùng hát và nhảy múa theo ca khúc này.[10] Quản lý của Bieber, Scooter Braun đã ký hợp đồng thu âm với Jepsen cho nhãn hiệu thu âm của riêng mình, Schoolboy Records, và hãng thu âm Interscope Records. Cô vẫn ký hợp đồng với 604 Records ở Canada và giữ Jonathan Simkin làm quản lý cho cô.[10]

 
Jepsen tại Cannes, Pháp, trong lễ trao giải NRJ Music Award 2013

Việc phát hành album thứ hai của Jepsen đã được hoãn lại để "Call Me Maybe" phổ biến rộng rãi, mặc dù 604 Records đã phát hành EP "Curiosity" gồm sáu bài hát vào tháng 2 năm 2012 tại Canada. "Call Me Maybe" đứng ở vị trí số một trên Canadian Hot 100[10], giúp Jepsen trở thành nghệ sĩ Canada thứ tư đứng đầu bảng xếp hạng.[15] Tại Hoa Kỳ, đĩa đơn dành vị trí thứ một trong 9 tuần trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, đạt danh hiệu "Song of the Summer" từ tạp chí Billboard.[16] "Call Me Maybe" đứng đầu bảng xếp hạng ở 18 quốc gia, tại Vương quốc Anh, "Call Me Maybe" là đĩa đơn bán chạy thứ hai của năm.[17] Đây là đĩa bán chạy nhất năm 2012 trên toàn thế giới, theo Liên đoàn công nghiệp đĩa nhạc quốc tế (IFPI).[18]

Jepsen đã thu âm bản song ca "Good Time" với Own City được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 6 năm 2012.[19] Bài hát đạt vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và đứng trước album thứ hai của Jepsen, "Kiss" được phát hành vào tháng 9 năm 2012 và đạt vị trí top 10 trên bảng xếp hạng tại Úc, Anh, và Mỹ.[13][20] "Kiss" có sự tham gia sáng tác và sản xuất của các nghệ sĩ Toby Gad, Matthew Koma, Bonnie McKee, Max Martin, Sara Quin (của Tegan and Sara), và Redfoo của LMFAO.[21] Album đã đạt chứng nhận vàng của Music Canada và đã bán được 289.000 bản ở Mỹ. Sự thất bại của album "Kiss" là do sự quá phổ biến của "Call Me Maybe". MTV Hive viết rằng "Kiss là album nhạc pop hay nhất của năm nhưng không ai lắng nghe nó".[22][23][24] Đĩa đơn tiếp theo "This Kiss" đã được phát hành vào tháng 9 năm 2012, theo sau là "Tonight I'm Getting Over You" vào tháng 1 năm 2013 nhưng không trở thành hit lớn.[23] Vào cuối năm 2012, Jepsen đã xuất hiện trong 90210 mùa 5 của CW và trở thành phát ngôn viên cho nhà bán lẻ quần áo Wet Seal.[25][26]

Jepsen đã nhận được giải "Ngôi sao mới nổi" tại Lễ trao giải Billboard Music 2012, cô là người Canada đầu tiên nhận được giải thưởng này.[27] Tại lễ trao giải Juno năm 2013, "Kiss" đã giành được giải "Album của năm" và "Album nhạc pop của năm"[28]"Call Me Maybe" giành giải trong hạng mục "Đĩa dơn của năm". Đĩa đơn nhận được đề cử cho "Bài hát của năm" và giải "Pop Solo xuất sắc nhất" tại Lễ trao giải Grammy lần thứ 55.[29] Trong năm 2013, Jepsen đã trở thành phát ngôn viên cho thương hiệu quần áo/giày dép Candie's[30]. Vào tháng 6 năm 2013, "Kiss: The Remix", một album tổng hợp có chứa các bản remix của album "Kiss", được phát hành độc quyền tại Nhật Bản và đạt vị trí cao nhất 157 trên bảng xếp hạng Oricon.[31] Từ tháng 6 đến tháng 10, Jepsen bắt tay vào The Summer Kiss Tour để quảng bá cho "Kiss" lưu diễn tại Bắc Mỹ và Châu Á.

2014 - nay: Emotion, Emotion: Side B và các dự án khác

sửa

Album thứ ba của Jepsen dự kiến ​​sẽ ra mắt vào đầu năm 2014, nhưng cô tuyên bố rằng cô sẽ không vội vã ra mắt album và thay vào đó sẽ dành thời gian để đảm bảo chất lượng.[32]

Từ tháng 2 năm 2014, Jepsen nhận vai Cinderella trong phiên bản Broadway của Cinderella, Rodgers & Hammerstein's Cinderella. Cô đóng vai trong mười hai tuần và đóng vai chính cùng với thành viên Fran Drescher.[33][34]

Trong năm 2014, Jepsen, cùng với Josh RamsayTavish Crowe nhận giải thưởng Achievement Award tại lễ trao giải SOCAN Awards ở Toronto.[35]

 
Jepsen biểu diễn năm 2016 tại Warfield Theatre, San Francisco, điểm dừng trong chuyến lưu diễn Gimmie Love Tour.

Jepsen phát hành đĩa đơn đầu tiên của album thứ ba, "I Really Like You", vào tháng 3 năm 2015.[36] Cùng với một video âm nhạc, trong đó diễn viên Tom Hanks hát nhép và nhảy theo bài hát. Đĩa đơn đạt được vị trí 14 ở Canada và đạt được top 5 và top 40 tại Anh và Mỹ.[13][37] Tháng sau đó, Jepsen đã biểu diễn ca khúc "All That " trong Saturday Night Live và được phát hành trên các cửa hàng âm nhạc kỹ thuật số vào ngày hôm sau.[38] Album Emotion, đã được phát hành vào tháng 6 năm 2015 và đã nhận được những nhận xét tích cực. Album xuất hiện trên nhiều danh sách album cuối năm 2015.[39][40] Emotion đạt đỉnh ở vị trí thứ 8 tại Canada và ở vị trí thứ 16 trên US Billboard 200.[39] Album bao gồm các ca khúc hợp tác với Rostam Batmanglij (của Vampire Weekend), Sia Furler, Dev Hynes, Greg KurstinAriel Rechtshaid.[41] Đĩa đơn thứ hai của album, "Run Away with Me", được phát hành vào tháng 7.[42]

Jepsen đã bắt tay vào "Gimmie Love Tour" để hỗ trợ quảng bá cho "Emotion", dọc theo bờ biển phía đông của Hoa Kỳ cũng như Nhật Bản vào tháng 11 năm 2015.[43] Cuối năm 2015, Jepsen đã tham gia vào một phiên bản mới của bài hát Bleachers "Shadow "- phát hành trong album biên soạn "Terrible Thrills, Vol. 2"[44] và phát hành một bản cover ca khúc "Last Christmas" của Wham!.[45] Jepsen đã diễn vai Frenchy trong Grease Live, chương trình truyền hình trực tiếp của Fox về nhạc Grease vào ngày 31 tháng 1 năm 2016.[46] Một công bố vào ngày 15 tháng 1 năm 2016 rằng một bài hát mới viết cho Jepsen được gọi là "All I Need Is an Angel" đã được thêm vào Grease Live. Nó được viết bởi Tom KittBrian Yorkey.[47][48] Jepsen đã thu âm ca khúc chủ đề cho loạt phim Fuller House của Netflix, được công chiếu vào tháng 2 năm 2016.[49] Cũng trong năm 2016, Jepsen xuất hiện trong album đầu tiên của The Knocks 55.[50]

Carly được đề cử giải Fan Choice cho giải thưởng Juno năm 2016.[51]

Jepsen phát hành "Emotion: Side B" vào ngày 26 tháng 8 năm 2016. EP chứa 8 ca khúc được cắt từ "Emotion".[52] EP đã được đề cập trong nhiều danh sách cuối năm của các ấn phẩm như Rolling Stone, Pitchfork, Stereogum, The A.V. Club, MuuMuse.

Vào ngày 26 tháng 5 năm 2017, Jepsen phát hành đĩa đơn "Cut to the Feeling".[53] Bài hát ban đầu được dự định cho cả "Emotion""Emotion: Side B" nhưng cuối cùng lại được giữ lại và thay vào đó xuất hiện trong soundtrack của bộ phim hoạt hình Ballerina, trong đó Jepsen lồng tiếng cho một vai phụ.[53]

Ảnh hưởng âm nhạc

sửa

Jepsen nói rằng cô có sự ảnh hưởng với âm nhạc dân gian. Các nghệ sĩ như Leonard Cohen, Bruce Springsteen, James TaylorVan Morrison là nguồn cảm hứng cho album đầu tay của cô, "Tug of War" (2008).[54][55] Trong thời gian thu âm cho EP Curiosity và album thứ hai của cô, "Kiss", Jepsen nói rằng cô trở nên ngày càng bị ảnh hưởng bởi pop và nhạc dance, đặc biệt là các sáng tác của Dragonette, Kimbra, La RouxRobyn.[55][56][57] Album thứ ba của cô, "Emotion" (2015), đã lấy cảm hứng từ tình yêu của nhạc pop những năm 1980 và những album "old-school" của Cyndi Lauper, Madonna, and Prince.[41][58] Jepsen cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Cat Power, Christine and the Queens, Tegan and Sara,[59] Bleachers, Bob Dylan, Sky Ferreira, Dev Hynes, Solange Knowles, Joni Mitchell, Sinéad O'Connor, Spice Girls, và Hank Williams.[58][60][61]

Hoạt động

sửa

Jepsen là một nhà hoạt động vì quyền của người đồng tính. Cô được dữ kiến sẽ biểu diễn tại Boy Scouts of America 2013 National Scout Jamboree, cùng với ban nhạc Train.[62] Tháng 3 năm 2013, cả hai đều có cho rằng chính sách của BSA đối với người đồng tính là rào cản đối với hoạt động của họ.[63][64] Jepsen phát đi một tuyên bố nói rằng: "Là một nghệ sĩ tin tưởng vào sự bình đẳng cho tất cả mọi người, tôi sẽ không tham gia vào Boy Scout of America Jamboree mùa hè này."[63]

Biểu diễn tại Canadian Idol

sửa

Danh sách những màn biêu diễn của Jepsen tại Canadian Idol.[65][66]

Tập Ca khúc Yêu cầu Kết quả
Audition "Sweet Talker" (original) N/A Tiếp tục
Top 80 "I Try" Duets Tiếp tục
Top 40 "Breathe (2 AM)" N/A Tiếp tục
Top 22 "Put Your Records On" 11 Tiếp tục
Top 18 "Sweet Ones" 4 Tiếp tục
Top 14 "Waiting in Vain" 3 Tiếp tục
Top 10 "Inside and Out" 3 Tiếp tục 3
Top 9 "Georgia on My Mind" 5 An toàn
Top 8 "Torn" 7 An toàn
Top 7 "Killer Queen" 3 Dưới 3
Top 6 "Come to My Window" 4 Dưới 3
Top 5 "Chuck E's in Love" 4 An toàn
Top 4 "My Heart Belongs to Daddy" 1 An toàn
"I Got It Bad (and That Ain't Good)" 5
Top 3 "At Seventeen" 3 Bị loại
"White Flag" 6

Danh sách đĩa nhạc

sửa

Album phòng thu

sửa

Đĩa mở rộng

sửa

Tours diễn

sửa

Danh sách phim

sửa
Truyền hình
Năm Tiêu đề Vai Ghi chú
2007 Canadian Idol Bản thân/thí sinh Mùa 5; Giải Ba
2012 90210 Bản thân Mùa 5 Tập 1: "Til Death Do Us Part"
2013 Shake It Up Herself Mùa 3 Episode 10: "My Fair Librarian It Up"
2015 Saturday Night Live Bản thân/Nghệ sĩ khách mời Mùa 40 Tập 17: "Michael Keaton/Carly Rae Jepsen"
2015 Castle Bản thân Mùa 7 Tập 22: "Dead from New York"
2015 Comedy Bang! Bang! Bản thân Mùa 4 Tập 24: "Carly Rae Jepsen Wears a Chunky Necklace and Black Ankle Boots"
2016 Grease: Live Frenchy Đặc biệt
Phim
Năm Tiêu đề Vai Ghi chú
2013 Lennon or McCartney Bản thân Phim ngắn; Clip phỏng vấn
2016 Ballerina Odette Lồng tiếng
Sân khấu
Năm Tiêu đề Vai Ghi chú
2014 Rodgers + Hammerstein's Cinderella Ella

Giải thưởng và đề cử

sửa
Năm Lễ trao giải Đề cử Kết quả
2010 Canadian Radio Music Awards[67] Bài hát của năm, "Tug of War" Đoạt giải
Western Canadian Music Awards[68] Bài hát của năm, "Tug of War" Đề cử
Juno Awards[69] Ca sĩ mới của năm Đề cử
Juno Awards[69] Nhạc sĩ của năm (With Ryan Stewart) Đề cử
Much Music Video Awards Ca sĩ mới được yêu thích nhất Đề cử
2012 Much Music Video Awards[70] Video nhạc Pop của năm, "Call Me Maybe" Đề cử
Much Music Video Awards[70] Ca sĩ được yêu thích nhất Đề cử
Much Music Video Awards[70] Video được xem nhiều nhất năm, "Call Me Maybe"
"Till The World Blow"
Đoạt giải
Much Music Video Awards[70] Video của năm, "Call Me Maybe" Đoạt giải
Much Music Video Awards[70] Video được yêu thích nhất, "Call Me Maybe" Đoạt giải
Teen Choice Awards[71] Ca sĩ bùng nổ Đoạt giải
Teen Choice Awards[72] Bài hát mùa hè, "Call Me Maybe" Đoạt giải
Teen Choice Awards[72] Nữ ca sĩ của năm Đề cử
MTV Video Music Awards[73] Ca sĩ mới được yêu thích nhất, "Call Me Maybe" Chưa công bố
Western Canadian Music Awards[74] Thu âm Pop của năm, "Curiosity" Chưa công bố

Tham khảo

sửa
  1. ^ “Carly Rae Jepsen Biography”. Biography.com. A&E Television Networks, LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
  2. ^ Monger, James Christopher. “Carly Rae Jepsen Biography”. AllMusic.com. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
  3. ^ “Carly Rae Jepsen Named Billboard's 'Rising Star' of 2012”. billboard.com. ngày 25 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2013.
  4. ^ “2013 Allan Slaight Award Recipient Carly Rae Jepsen”. canadaswalkoffame.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2013.
  5. ^ “MTVA EMA Carly Rae Jepsen”. MTV.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2015.
  6. ^ “Carly Rae Jepsen's career start was 'a beautiful fire'. utv.ie. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2015.
  7. ^ Webb, Kate (ngày 20 tháng 3 năm 2012). “Mission's Carly Rae Jepsen to appear on Ellen show”. metronews.ca. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2013.
  8. ^ Derdeyn, Stuart (ngày 7 tháng 7 năm 2012). “The making of Carly Rae Jepsen's 'Call Me Maybe'. Postmedia News. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2016.
  9. ^ a b c Ouzounian, Richard (ngày 21 tháng 2 năm 2014). “Carly Rae Jepsen: The Big Interview”. Toronto Star. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2017.
  10. ^ a b c d e f 'Call Me Maybe' Tops the Hot 100”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2017.
  11. ^ Block, Sheri (ngày 4 tháng 7 năm 2008). “Carly Rae has 'sunshine on her shoulders'. CTV.ca. Bản gốc lưu trữ Tháng 7 12, 2008. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2017. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày lưu trữ= (trợ giúp)
  12. ^ “Carly Rae Jepsen-audition”. YouTube. ngày 7 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  13. ^ a b c “Carly Rae Jepsen”. acharts.us.
  14. ^ Jepsen, Carly Rae. “Western Canadian Tour!!!”. Carly Rae Jepsen's Blog. MySpace. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2012.
  15. ^ “The 4th Canadian Single to Top the Canadian Billboard Hot 100”. Canadian Music Blog. wordpress.com. ngày 5 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  16. ^ Trust, Gary (ngày 6 tháng 9 năm 2012). “Carly Rae Jepsen's 'Call Me Maybe' Is Billboard's Song of the Summer”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2017.
  17. ^ Lane, Dan (ngày 4 tháng 5 năm 2013). “Call Me Maybe celebrates its first birthday!”. officialcharts.com. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2017.
  18. ^ “IFPI Digital Music Report 2013” (PDF). IFPI.org. International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  19. ^ Hoffa, Meredith. “Carly Rae Jepsen and Owl City have a 'Good Time' in new collaboration”. EW.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
  20. ^ Maloy, Sarah (ngày 7 tháng 8 năm 2012). “Carly Rae Jepsen's 'Kiss' Album Due Sept. 18”. Billboard. Billboard.com. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2012.
  21. ^ “Carly Rae Jepsen, 'Kiss' (Album Review)”. MuuMuse.
  22. ^ “Gold/Platinum”. Music Canada.
  23. ^ a b “Carly Rae Jepsen”. Billboard.
  24. ^ St. Asaph, Katherine. “How the Internet Killed Carly Rae Jepsen”. MTV Hive. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  25. ^ Rome, Emily (ngày 9 tháng 7 năm 2012). “Carly Rae Jepsen to guest star on '90210'. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2012.
  26. ^ “Carly Rae Jepsen for Wet Sea”. PeopleStyleWatch.com. Time Inc. ngày 6 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  27. ^ “Carly Rae Jepsen Named Billboard's 'Rising Star' of 2012”. Billboard.com. ngày 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2012.
  28. ^ “Juno Awards: Carly Rae Jepsen big winner”. CBC.ca. ngày 22 tháng 4 năm 2013.
  29. ^ “Grammy Nominations Leave Carly Rae Jepsen 'Over The Moon'. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2017.
  30. ^ “Carly Rae Jepsen Fronts Candie's New Campaign”. people.com. ngày 23 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2013.
  31. ^ “Carly Rae Jepsen – Kiss The Remix”. oricon.co.jp. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2013.
  32. ^ Wass, Mike. “Carly Rae Jepsen's Next Album Will Be Cool And Edgy | Music News, Reviews, and Gossip on”. Idolator.com. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  33. ^ Kepler, Adam W. (ngày 29 tháng 12 năm 2013). “New Role for Carly Rae Jepsen: Cinderella”. The New York Times.
  34. ^ Shamsher, Aliyah (ngày 29 tháng 6 năm 2015). “Me, Myself and I: Carly Rae Jepsen”. Elle Canada.
  35. ^ “2014 SOCAN Awards”. SOCAN.ca. Society of Composers, Authors and Music Publishers of Canada. 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2017.
  36. ^ “I Really Like You – Single”. iTunes. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2015.
  37. ^ Hanks, Henry (ngày 9 tháng 3 năm 2015). “We really like this: Tom Hanks sings Carly Rae Jepsen”. CNN.com.
  38. ^ “Carly Rae Jepsen Just Released Her New Single, 'All That'. The Huffington Post. ngày 5 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2015.
  39. ^ a b “Why Did Carly Rae Jepsen's E•MO•TION Flop Commercially?”. Vice. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2016. Still, E•MO•TION was a monumental commercial flop.
  40. ^ Savage, Mark. “How Carly Rae Jepsen shrugged off Call Me Maybe”. BBC. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  41. ^ a b Davidson, Amy (ngày 29 tháng 4 năm 2015). “Carly Rae Jepsen interview: 'Sia track is a girl anthem with an '80s flair'. Digital Spy. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2017.
  42. ^ “See Carly Rae Jepsen's Jet-Setting 'Run Away With Me' Video”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2017.
  43. ^ “Carly Rae Jepsen Announces Gimmie Love Tour: See The Dates”. Idolator.[liên kết hỏng]
  44. ^ “Hear Charli XCX, Carly Rae Jepsen, Sia, Tinashe, & Other Female Artists Cover Bleachers”. Stereogum. ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  45. ^ Retting, James. “Carly Rae Jepsen – "Last Christmas" (Wham! Cover)”. Sterogum. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2015.
  46. ^ “Carly Rae Jepsen and Jessie J Join Grease: Live”. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  47. ^ Littleton, Cynthia (ngày 16 tháng 1 năm 2016). 'Grease Live' Cast Talks New Song, 'Joy and Exuberance' of Ambitious Live Event”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  48. ^ “Carly Rae Jepsen Will Get New Song in Grease: Live; Original Film Stars to Cameo”. Playbill. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  49. ^ Weiner, Natalie. “Carly Rae Jepsen Did the Theme Song for the 'Full House' Netflix Reboot”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015.
  50. ^ “The Knocks Reveal New Album Details, Share 'New York City' Featuring Cam'ron”. TheFader.com. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  51. ^ “Nominees & Winners”. Junoawards.ca (bằng tiếng Anh). The Canadian Academy of Recording Arts and Sciences. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2016.
  52. ^ “Carly Rae Jepsen Will Release 'E•MO•TION: Side B' to Celebrate One-Year Anniversary”. Spin. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2016.
  53. ^ a b Servantes, Eric (ngày 25 tháng 5 năm 2017). “Carly Rae Jepsen - "Cut to the Feeling". Spin. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2017.
  54. ^ Macsai, Dan (ngày 18 tháng 5 năm 2012). “Q&A with 'Call Me Maybe' Singer Carly Rae Jepsen | Entertainment | TIME.com”. Entertainment.time.com. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
  55. ^ a b Daniels, Colin (ngày 10 tháng 12 năm 2012). “Carly Rae Jepsen inspired by Van Morrison, Leonard Cohen – Music News – Digital Spy”. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  56. ^ Sophie Schillaci (ngày 25 tháng 7 năm 2012). “Carly Rae Jepsen on Her Song of Summer, New Album and Craziest Moment (Video)”. Hollywood Reporter. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  57. ^ “Carly Rae Jepsen Talks Touring With Justin Bieber: His Energy Is Contagious | E! Online”. Uk.eonline.com. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  58. ^ a b “Q&A: Carly Rae Jepsen On Her All-Star Indie Collaborators And Really, Really, Really Anticipated New Album”. Stereogum. ngày 5 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  59. ^ “Playlist: What's Carly Rae Jepsen listening to?”. USA Today. ngày 13 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
  60. ^ “Women Who Rock: Carly Rae Jepsen – Video Rolling Stone”. Rolling Stone. ngày 17 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  61. ^ “Carly Rae Jepsen Talks New Album @ARTISTdirect”. Artistdirect.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  62. ^ “Carly Rae Jepsen and Train Refuse to Perform at Boy Scout Jamboree”. time.com. ngày 5 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2013.
  63. ^ a b Heldman, Breanne (ngày 5 tháng 3 năm 2013). “Carly Rae Jepsen Won't Play Boy Scouts Concert – But for Good Reasons”. ca.music.yahoo.com. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2013.
  64. ^ Bennettsmith, Meredith (ngày 4 tháng 3 năm 2013). “Train Won't Play At Boy Scouts Jamboree Unless BSA Lifts Ban On Gay Scouts, Band Says”. The Huffington Post. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2013. [Train] strongly opposes any kind of policy that questions the equality of any American citizen... We look forward to participating in the Jamboree this summer, as long as they make the right decision before then.
  65. ^ Parker, Lyndsey. “Watch Carly Rae Jepsen's Entire Run on 'Canadian Idol'. Yahoo. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  66. ^ Smith, Grady. “Every 'Canadian Idol' performance by Carly Rae Jepsen, compiled for your viewing pleasure”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  67. ^ Canadian Music Week – 2010 CRMA Nominees. cmw.net
  68. ^ Jepsen's MySpace Blog ngày 27 tháng 1 năm 2010. Blogs.myspace.com (ngày 27 tháng 1 năm 2010). Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2012.
  69. ^ a b Michael Bublé, Drake, Justin Bieber, AND 'premier rock legends' as Junos announce 2010 nominees, performers Lưu trữ 2013-08-14 tại Wayback Machine. newsodrome.com
  70. ^ a b c d e “Marianas Trench leads with seven nominations at the 2012 MMVAs | 2012 MuchMusic Video Awards”. Mmva.muchmusic.com. ngày 15 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  71. ^ “Teen Choice Awards 2012 - Signin v1”. Teenchoiceawards.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2012.
  72. ^ a b “Teen Choice Awards 2012 - Signin v1”. Teenchoiceawards.com. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2012.[liên kết hỏng]
  73. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.
  74. ^ “BreakOut West • Western Canadian Music Awards 2012”. Breakoutwest.ca. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2012.

Liên kết ngoài

sửa